Lê An

Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, đại biểu quốc hội khóa X

Lê An hay Lê Văn An (16 tháng 12 năm 1936 – 28 tháng 2 năm 2021) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Phó tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 5, Giám đốc Học viện Lục quân,[1] đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX.[2]

Lê An
Chức vụ
Nhiệm kỳ1995 – 2000
Tiền nhiệmKhiếu Anh Lân
Kế nhiệmĐào Văn Lợi
Chính ủyNguyễn Văn Thái
Lê Ngọc Sanh
Phó Giám đốc Học viện Lục quân
Nhiệm kỳ1994 – 1995
Giám đốcKhiếu Anh Lân
Tiền nhiệmHuỳnh Nghĩ
Kế nhiệmNguyễn Đức Quý
Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng
Quân khu 5
Nhiệm kỳ1986 – 1994
Tư lệnhPhan Hoan
Kế nhiệmTrần Minh Thiệt
Thông tin chung
Quốc tịch Việt Nam
Sinh(1936-12-16)16 tháng 12, 1936
Hoài Hảo, Hoài Nhơn, Bình Định
Mất28 tháng 2, 2021(2021-02-28) (84 tuổi)
Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh
Dân tộcKinh
Tôn giáoKhông
Đảng chính trịĐảng Cộng sản Việt Nam
Binh nghiệp
Phục vụ Quân đội nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ1954 – 2000
Cấp bậc
Tham chiếnChiến tranh biên giới Tây Nam
Khen thưởngHuân chương Quân công Huân chương Quân công hạng Ba
Huân chương Chiến công Huân chương Chiến công hạng Nhất
Huân chương Kháng chiến Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
Huân chương Chiến sĩ vẻ vang Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất
Huy chương Quân kỳ quyết thắng Huy chương Quân kỳ quyết thắng

Cuộc đời

Lê An sinh ngày 16 tháng 12 năm 1936 tại xã Hoài Hảo, thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.[3] Ông nhập ngũ từ đầu năm 1954 và là lính của Tiểu đoàn 8 thuộc Trung đoàn 84, Tỉnh đội Bình Định. Một năm sau, ông trở thành Tiểu đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn Pháo binh 954 thuộc Sư đoàn 351. Sau 2 năm được đào tạo tại Trường Sĩ quan Pháo binh, đến tháng 10 năm 1959, ông trở thành Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 378 pháo binh. Tháng 5 năm 1962, ông được điều làm Trợ lý trinh sát Trung đoàn 204, Sư đoàn 351, và trở thành Trợ lý trinh sát của Sư đoàn vào tháng 6 năm sau. Từ tháng 5 năm 1965 đến tháng 12 năm 1975, ông trải qua nhiều chức vụ như Đại đội trưởng, Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó Quân sự và Trung đoàn trưởng trên Mặt trận B3 (mặt trận Tây Nguyên).[4]

Tháng 1 năm 1976, ông được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng Trường Quân chính thuộc Quân khu 5. Đến tháng 9 năm 1979, ông trở thành Tham mưu phó kiêm Trưởng phòng Tác chiến của Quân khu 5. Sau một năm học tại Học viện Quân sự cấp cao, ông được bổ nhiệm làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 307 thuộc Mặt trận 579, Quân khu 5, tham gia chiến đấu tại chiến trường Campuchia trong Chiến tranh biên giới Tây Nam.[5] Đến tháng 6 năm 1984 thì ông trở thành Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng của Mặt trận. 2 năm sau, ông được bổ nhiệm làm Phó tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng của Quân khu 5. Trong thời gian này, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng và cử sang Liên Xô học chỉ huy quân sự tại Học viện Voroshilov. Tháng 7 năm 1995, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Học viện Lục quân sau 1 năm đảm nhiệm vị trí Phó giám đốc và được thăng quân hàm Trung tướng.[6][7]

Tháng 11 năm 2000, ông được về hưu theo chế độ. Đến ngày 28 tháng 2 năm 2021, ông qua đời tại nhà riêng, hưởng thọ 84 tuổi.[8][9]

Khen thưởng

Lịch sử thụ phong quân hàm

Năm thụ phong19881994
Cấp bậcĐại táThiếu tướngTrung tướng

Tham khảo