Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1977

Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1977 là một trong những mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương ít hoạt động nhất từng được ghi nhận, với chỉ 19 cơn bão nhiệt đới hình thành. Bên cạnh đó đây còn là mùa bão duy nhất trong kỷ nguyên vệ tinh (kể từ năm 1960) không sản sinh ra bất kỳ một siêu bão cấp 5 nào. Cơn bão đầu tiên của mùa bão là bão nhiệt đới dữ dội Patsy, hình thành vào ngày 23 tháng 3; và cơn bão cuối cùng là Mary, tan vào ngày 2 tháng 1 năm 1978. Mary là cơn bão thứ tư kể từ năm 1945 tồn tại kéo dài sang năm dương lịch tiếp theo.

Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1977
Bản đồ tóm lược mùa bão
Lần đầu hình thành10 tháng 1 năm 1977
Lần cuối cùng tan3 tháng 1 năm 1978
Bão mạnh nhấtBabe – 905 hPa (mbar), 205 km/h (125 mph) (duy trì liên tục trong 10 phút)
Áp thấp nhiệt đới26
Tổng số bão20
Bão cuồng phong11
Siêu bão cuồng phong1
Số người chết143 trực tiếp, 47 gián tiếp
Thiệt hạiKhông rõ
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương
1975, 1976, 1977, 1978, 1979

Phạm vi của bài viết này chỉ giới hạn ở Thái Bình Dương, khu vực nằm ở phía Bắc xích đạo và phía Tây đường đổi ngày quốc tế. Những cơn bão hình thành ở khu vực phía Đông đường đổi ngày quốc tế và phía Bắc xích đạo thuộc về Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1977. Bão nhiệt đới hình thành ở toàn bộ khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương sẽ được đặt tên bởi Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp JTWC . Áp thấp nhiệt đới ở khu vực này sẽ có thêm hậu tố "W" phía sau số thứ tự của chúng. Áp thấp nhiệt đới trở lên hình thành hoặc đi vào khu vực mà Philippines theo dõi cũng sẽ được đặt tên bởi Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines PAGASA . Đó là lý do khiến cho nhiều trường hợp, một cơn bão có hai tên gọi khác nhau.

Các cơn bão

Trong năm 1977 trên Tây Bắc Thái Bình Dương, có tổng cộng 26 áp thấp nhiệt đới được công nhận bởi nhiều tổ chức cảnh báo khác nhau. 20 trong số chúng đã trở thành những cơn bão nhiệt đới, 11 đạt cường độ bão cuồng phong, và 1 đạt cấp độ siêu bão.[1]

Áp thấp nhiệt đới Atring

Áp thấp nhiệt đới (PAGASA)
 
Thời gian tồn tại10 tháng 1 – 13 tháng 1
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (10-min) 

Bão nhiệt đới Patsy

Bão nhiệt đới dữ dội (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại23 tháng 3 – 31 tháng 3
Cường độ cực đại95 km/h (60 mph) (10-min)  990 hPa (mbar)

Áp thấp nhiệt đới 02W (Bining)

Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại26 tháng 5 – 27 tháng 5
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (1-min)  1000 hPa (mbar)

Bão nhiệt đới Ruth (Kuring)

Bão nhiệt đới dữ dội (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại14 tháng 6 – 17 tháng 6
Cường độ cực đại110 km/h (70 mph) (10-min)  975 hPa (mbar)

Áp thấp nhiệt đới 04W (Daling)(bão số 1)

Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại5 tháng 7 – 6 tháng 7
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (1-min)  995 hPa (mbar)

Bão Sarah (Elang)(bão số 2)

Bão cuồng phong mạnh (JMA)
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại16 tháng 7 – 21 tháng 7
Cường độ cực đại130 km/h (80 mph) (10-min)  970 hPa (mbar)

Bão Thelma (Goring)

Bão cuồng phong mạnh (JMA)
Bão cuồng phong cấp 2 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại21 tháng 7 – 26 tháng 7
Cường độ cực đại130 km/h (80 mph) (10-min)  950 hPa (mbar)

Một vùng nhiễu động nhiệt đới trên vùng biển phía Đông Philippines đã phát triển thành một áp thấp nhiệt đới trong ngày 21 tháng 7. Hệ thống di chuyển theo hướng Tây Bắc, mạnh lên bão nhiệt đới vào cuối ngày và bão cuồng phong vào ngày 22. Sau khi vượt qua Bắc Luzon và trút xuống những cơn mưa lớn, Thelma chuyển hướng Bắc và đạt đỉnh với vận tốc gió 95 dặm/giờ. Vào ngày 25, cơn bão tấn công Đài Loan, trước khi vượt qua hòn đảo này và tan trên vùng Đông Nam Trung Quốc trong ngày 26. Dù không quá mạnh, Thelma vẫn đem đến gió lớn kèm theo những trận mưa nặng hạt, hậu quả là tổn thất nghiêm trọng cùng với hơn 30 người thiệt mạng.

Bão Vera (Huling)

Bão cuồng phong dữ dội (JMA)
Bão cuồng phong cấp 3 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại28 tháng 7 – 1 tháng 8
Cường độ cực đại205 km/h (125 mph) (10-min)  925 hPa (mbar)

Chỉ 6 ngày sau khi Thelma tấn công Đài Loan, một cơn bão khác đã xuất hiện ở phía Đông. Bão Vera, phát triển từ ngày 28 tháng 7, và nó đã tấn công Đài Loan vào ngày 31 với sức gió 130 dặm/giờ trước khi tiếp tục di chuyển về phía Tây và tan trên đất liền Trung Quốc. Cơn bão khiến 25 người thiệt mạng, cùng với đó là thiệt hại lớn về tài sản và cây trồng.

Bão nhiệt đới Wanda

Bão nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại31 tháng 7 – 4 tháng 8
Cường độ cực đại75 km/h (45 mph) (10-min)  985 hPa (mbar)

Bão nhiệt đới Amy (Ibiang)

Bão nhiệt đới dữ dội (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại20 tháng 8 – 23 tháng 8
Cường độ cực đại110 km/h (70 mph) (10-min)  985 hPa (mbar)

Bão nhiệt đới August (tháng 8)

Bão nhiệt đới (JMA)
 
Thời gian tồn tại21 tháng 8 – 22 tháng 8
Cường độ cực đại75 km/h (45 mph) (10-min)  989 hPa (mbar)

Bão Babe (Miling)

Bão cuồng phong dữ dội (JMA)
Siêu bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại2 tháng 9 – 12 tháng 9
Cường độ cực đại205 km/h (125 mph) (10-min)  905 hPa (mbar)

Hình thành từ một áp thấp nhiệt đới trong ngày 2 tháng 9, Babe ban đầu di chuyển theo hướng Tây - Tây Bắc và mạnh dần lên. Đến ngày 5 tháng 9, một sự thay đổi đột ngột trong dòng dẫn khiến hệ thống chuyển hướng Bắc - Tây Bắc. Trong hai ngày tiếp theo, Babe mạnh lên rất nhanh, cuối cùng đạt đỉnh với vận tốc gió 240 km/giờ (150 dặm/giờ) trong ngày mùng 8 cùng áp suất khí quyển 905 mbar (hPa; 26,72 inHg). Không lâu sau, một sự thay đổi khác trong dòng dẫn khiến cơn bão di chuyển thành một đường vòng cung theo chiều ngược chiều kim đồng hồ trong quãng thời gian dài, đi xuyên qua quần đảo Ryukyu và tương tác với một vùng áp suất thấp có nguồn gốc từ bán đảo Triều Tiên. Hệ thống dần suy yếu và cuối cùng đổ bộ lên địa điểm gần Thượng Hải, Trung Quốc vào ngày 11 tháng 9 với cường độ bão cấp 1 trước khi tan trên đất liền trong ngày hôm sau.[2][3]

Di chuyển qua quần đảo Ryuku khi là một cơn bão mạnh, Babe đã gây ra tổn thất nghiêm trọng cho khu vực này, Hơn 1.000 ngôi nhà đã bị phá hủy và gần 7.000 ngôi nhà khác bị hư hại hoặc ngập lụt. Một người thiệt mạng tại đảo Amami Ōshima và 77 người khác bị thương trên toàn nước Nhật.[4] Tổng thiệt hại lên tới 6,1 tỉ Yên (¥) (23 triệu USD).[5] Ở ngoài khơi, đã có hơn 100 tàu thuyền chịu tác động, bao gồm một con tàu chở hàng của Panama với 13 người trên tàu thiệt mạng.[2] Tại Trung Quốc có hơn 24.000 ngôi nhà bị phá hủy cùng 9 người thiệt mạng.[6]

Bão nhiệt đới Carla (Luming)bão số 3

Bão nhiệt đới (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại3 tháng 9 – 5 tháng 9
Cường độ cực đại65 km/h (40 mph) (10-min)  990 hPa (mbar)

Bão Dinah (Openg)(bão số 4)

Bão cuồng phong mạnh (JMA)
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại14 tháng 9 – 23 tháng 9
Cường độ cực đại130 km/h (80 mph) (10-min)  965 hPa (mbar)

Một rãnh gió mùa đã sản sinh ra một cơn bão nhiệt đới vào ngày 14 tháng 9 trên vùng biển phía Đông Bắc Philippines. Trước đó một cơn bão khác đã mang rãnh thấp di chuyển dịch lên phía Bắc, khiến Dinah xuất hiện ở một vị trí có vĩ độ cao bất thường cho một cơn bão hình thành từ rãnh gió mùa. Tiếp đó, sự tồn tại của một áp cao mạnh phía Tây Bắc đã buộc Dinah di chuyển theo hướng Tây Nam, đi qua vùng Bắc Luzon trong ngày 15 và 16. Khi tiến vào Biển Đông, dòng dẫn yếu đã cho phép Dinah trôi dạt, đầu tiên là về phía Đông Bắc rồi tiếp đến quay trở lại hướng Tây - Tây Nam. Điều kiện nhìn chung thuận lợi giúp Dinah mạnh lên thành bão cuồng phong trong ngày 19; nhưng một thời gian sau một cơn bão nhiệt đới mới hình thành ở phía Đông Bắc đã khiến nó suy yếu. Áp cao mới hình thành buộc Dinah di chuyển theo hướng Tây Nam, và nó đã đổ bộ vào miền Trung Việt Nam trong ngày 23 với cường độ áp thấp nhiệt đới. Sau đó, tàn dư của Dinah chuyển hướng đi lên phía Bắc, vượt qua vịnh Bắc Bộ và biến mất hoàn toàn trên đất liền Trung Quốc trong ngày 27.

Tại Luzon, Dinah gây ra mưa lớn và lũ lụt khiến 54 người chết và 11 người khác mất tích.[7]

Áp thấp nhiệt đới Narsing

Áp thấp nhiệt đới (JMA)
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại11 tháng 9 – 13 tháng 9
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (10-min) 

Bão nhiệt đới Emma

Bão nhiệt đới dữ dội (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại15 tháng 9 – 20 tháng 9
Cường độ cực đại110 km/h (70 mph) (10-min)  965 hPa (mbar)

Bão nhiệt đới Freda (Pining)(bão số 5)

Bão nhiệt đới dữ dội (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại23 tháng 9 – 25 tháng 9
Cường độ cực đại100 km/h (65 mph) (10-min)  980 hPa (mbar)

Bão nhiệt đới Freda đã tấn công Hong Kong khiến một người thiệt mạng.[8]

Bão Gilda

Bão cuồng phong mạnh (JMA)
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại3 tháng 10 – 10 tháng 10
Cường độ cực đại120 km/h (75 mph) (10-min)  965 hPa (mbar)

Áp thấp nhiệt đới Rubing

Áp thấp nhiệt đới (JMA)
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại14 tháng 10 – 16 tháng 10
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (10-min) 

Bão nhiệt đới Harriet (Saling)

Bão nhiệt đới dữ dội (JMA)
Bão nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại16 tháng 10 – 20 tháng 10
Cường độ cực đại100 km/h (65 mph) (10-min)  980 hPa (mbar)

Bão Ivy

Bão cuồng phong mạnh (JMA)
Bão cuồng phong cấp 2 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại21 tháng 10 – 27 tháng 10
Cường độ cực đại150 km/h (90 mph) (10-min)  940 hPa (mbar)

Bão Jean

Bão cuồng phong mạnh (JMA)
Bão cuồng phong cấp 1 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại28 tháng 10 – 3 tháng 11
Cường độ cực đại120 km/h (75 mph) (10-min)  970 hPa (mbar)

Áp thấp nhiệt đới Tasing

Áp thấp nhiệt đới (JMA)
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại3 tháng 11 – 5 tháng 11
Cường độ cực đại55 km/h (35 mph) (10-min) 

Bão Kim (Unding)

Bão cuồng phong dữ dội (JMA)
Bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tạiNovember 6 – November 17
Cường độ cực đại205 km/h (125 mph) (10-min)  920 hPa (mbar)

Bão Kim tấn công miền Bắc Philippines vào ngày 13 tháng 11 với sức gió 135 dặm/giờ. Những trận mưa lớn từ cơn bão đã gây lũ quét khiến 55 người thiệt mạng cùng tổn thất trên diện rộng. Ngoài ra còn có thêm 47 người chết khi tầng trên của một khách sạn bị cháy trong quãng thời gian cơn bão hoành hành.

Bão Lucy (Walding)

Bão cuồng phong dữ dội (JMA)
Bão cuồng phong cấp 4 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại28 tháng 11 – 7 tháng 12
Cường độ cực đại205 km/h (125 mph) (10-min)  920 hPa (mbar)

Bão Mary (Yeyeng)

Bão cuồng phong rất mạnh (JMA)
Bão cuồng phong cấp 2 (SSHWS)
 
Thời gian tồn tại20 tháng 12 năm 1977 – 3 tháng 1 năm 1978
Cường độ cực đại155 km/h (100 mph) (10-min)  945 hPa (mbar)

Tên bão

Trong năm 1977, bão nhiệt đới trên Tây Bắc Thái Bình Dương được đặt tên bởi Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC). Cơn bão đầu tiên được đặt tên là Patsy và cuối cùng là Mary.

  • Agnes
  • Bonnie
  • Carmen
  • Della
  • Elaine
  • Faye
  • Gloria
  • Hester
  • Irma
  • Judy
  • Kit
  • Lola
  • Mamie
  • Nina
  • Ora
  • Phyllis
  • Rita
  • Susan
  • Tess
  • Viola
  • Winnie
  • Alice
  • Betty
  • Cora
  • Doris
  • Elsie
  • Flossie
  • Grace
  • Helen
  • Ida
  • June
  • Kathy
  • Lorna
  • Marie
  • Nancy
  • Olga
  • Pamela
  • Ruby
  • Sally
  • Therese
  • Violet
  • Wilda
  • Anita
  • Billie
  • Clara
  • Dot
  • Ellen
  • Fran
  • Georgia
  • Hope
  • Iris
  • Joan
  • Kate
  • Louise
  • Marge
  • Nora
  • Opal
  • Patsy 1W
  • Ruth 3W
  • Sarah 5W
  • Thelma 6W
  • Vera 7W
  • Wanda 8W
  • Amy 9W
  • Babe 10W
  • Carla 11W
  • Dinah 12W
  • Emma 13W
  • Freda 14W
  • Gilda 15W
  • Harriet 16W
  • Ivy 17W
  • Jean 18W
  • Kim 19W
  • Lucy 20W
  • Mary 21W
  • Nadine
  • Olive
  • Polly
  • Rose
  • Shirley
  • Trix
  • Virginia
  • Wendy

Xem thêm

  • Danh sách mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương
  • Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1977
  • Mùa bão Bắc Đại Tây Dương 1977
  • Các mùa bão Bắc Ấn Độ Dương trước 1980
  • Các mùa xoáy thuận nhiệt đới ở Nam bán cầu: 1976-77, 1977-78

Tham khảo

Liên kết ngoài