Ngô Mạnh Lân
Ngô Mạnh Lân (9 tháng 11 năm 1934 – 15 tháng 9 năm 2021) là một nhà đạo diễn, biên kịch và là nhà nghiên cứu phim hoạt hình Việt Nam. Nổi tiếng với nhiều bộ phim hoạt hình như Mèo con, Con sáo biết nói, Chuyện ông Gióng, Thạch Sanh. Ông được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1997 và giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.
Ngô Mạnh Lân | |
---|---|
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Tên khai sinh | Ngô Mạnh Lân |
Ngày sinh | 9 tháng 11, 1934 |
Nơi sinh | Thanh Trì, Hà Nội |
Mất | |
Ngày mất | 15 tháng 9, 2021 | (86 tuổi)
Nơi mất | Hà Nội |
Quốc tịch | Việt Nam |
Nghề nghiệp | |
Gia đình | |
Vợ | Phan Ngọc Lan |
Con cái |
|
Học vị | Tiến sĩ |
Học hàm | Phó Giáo sư |
Lĩnh vực | |
Khen thưởng | Huân chương Lao động hạng Nhất |
Danh hiệu |
|
Sự nghiệp điện ảnh | |
Năm hoạt động | 1962 – 1994 |
Đào tạo | Đại học Quốc gia Điện ảnh Liên Xô |
Thể loại | Phim hoạt hình |
Quản lý | Hãng phim hoạt hình Việt Nam |
Tác phẩm | |
Sự nghiệp hội họa | |
Đào tạo | Trường Mỹ thuật Việt Nam |
Thể loại |
|
Giải thưởng | |
Giải thưởng Nhà nước 2007 Văn học nghệ thuật | |
Tiểu sử
Ngô Mạnh Lân sinh ngày 9 tháng 11 năm 1934 tại Thanh Trì, Hà Nội.[1][2] Ông qua đời vào ngày 15 tháng 9 năm 2021 tại Hà Nội, hưởng thọ 87 tuổi, ông được an táng tại Nghĩa trang Lạc Hồng Viên, tỉnh Hòa Bình.[3][4]
Sự nghiệp
Ông đến với mỹ thuật từ sớm. Năm 1950, khi mới 16 tuổi, ông tham gia khoá học đầu tiên của Trường Mỹ thuật Việt Nam ở chiến khu Việt Bắc (1950 – 1954) do họa sĩ Tô Ngọc Vân phụ trách. Tốt nghiệp, ông vào phục vụ trong quân đội, từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và có nhiều ký họa kháng chiến.[1]
Hoà bình lập lại, năm 1956, ông được cử đi học khoa Đạo diễn hoạt hình tại Đại học Quốc gia Điện ảnh Liên Xô. Tốt nghiệp năm 1962, ông trở về nước làm việc tại Xưởng phim Hoạt họa búp bê Việt Nam, nay là Hãng phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1963, ông cho ra mắt bộ phim hoạt hình đầu tiên mang tên Một ước mơ. Những bộ phim sau đó của ông ghi nhiều dấu ấn với công chúng và đạt nhiều giải thưởng như: Dế Mèn phiêu lưu ký, Chuyện ông Gióng, Trê cóc, Con sáo biết nói, Những chiếc áo ấm, Thạch Sanh, Rừng hoa, Bộ đồ nghề nổi giận, Bước ngoặt, Phép lạ hồi sinh,... Với những tác phẩm này ông đã giành tổng cộng 3 giải Bông sen vàng, 4 giải Bông sen bạc, nhiều bằng khen của Ban giám khảo tại các kỳ Liên hoan phim Việt Nam và một số giải thưởng quốc tế như Bồ nông Bạc tại Liên hoan phim Hoạt hình quốc tế ở Mamaia (România) năm 1966 cho phim Mèo Con, Bồ câu Vàng tại Liên hoan phim quốc tế Leipzig, Cộng hòa Dân chủ Đức (1970) cho phim Chuyện ông Gióng. Với tổng cộng 17 bộ phim được thực hiện, ông là một trong những nghệ sĩ hàng đầu trong ngành điện ảnh hoạt hình Việt Nam. Ông từng giữ cương vị giám đốc Hãng phim hoạt hình Việt Nam, đồng thời nghiên cứu và giảng dạy về hoạt hình.[5][6]
Ngoài công việc đạo diễn, ông còn là một họa sĩ, hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam (1982). Ông đã vẽ nhiều ký hoạ, tranh sơn dầu, hoạt hình, tranh cổ động, bìa tem, bìa sách, truyện tranh. Ông đã thực hiện hai cuộc triển lãm, lần đầu là vào năm 1971, lần thứ hai là vào tháng 11 năm 2006. Năm 1977, ông cùng với nhà biên kịch Trần Ngọc Thanh đi sâu vào nghiên cứu những cơ sở nghệ thuật của phim hoạt hình và bước phát triển của phim hoạt hình Việt Nam, cho ra mắt bạn đọc cuốn sách Phim hoạt hình Việt Nam dày trên 300 trang, do Nhà xuất bản văn hóa xuất bản năm 1977. Ngoài ra ông còn xuất bản một số cuốn sách về nghệ thuật hoạt hình năm 1999. Tháng 3 năm 2007, Nhà xuất bản Mỹ thuật phát hành cuốn sách Ngô Mạnh Lân - chặng đường mỹ thuật 50 năm. Ông đã nhận được 6 giải thưởng về mỹ thuật (1 giải A triển lãm đồ họa - Hội nghệ sĩ tạo hình; 1 giải quốc gia về minh họa sách thiếu nhi - Bộ Giáo dục và Đào tạo và UNICEF; 2 giải nhất và 2 giải nhì về triển lãm áp phích - Bộ Văn hóa Thông tin). Ông còn tham gia giảng dạy tại trường Đại học Sân khấu – Điện ảnh Hà Nội.[1]
Ông tốt nghiệp Phó tiến sĩ Nghệ thuật năm 1984 tại Liên Xô, cùng năm ông được trao tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Ông cũng đã được trao tặng học hàm Phó giáo sư (1991) và danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân năm 1997. Năm 2007, ông nhận Giải thưởng Nhà nước cho các tác phẩm: Mèo con, Chuyện ông Gióng, Con sáo biết nói, Những chiếc áo ấm, Trê cóc.[1]
Ngô Mạnh Lân là một trong các nghệ sĩ điện ảnh Việt Nam có mặt trong Bách khoa toàn thư điện ảnh Liên Xô.[7] Năm 2008, ông là một trong 11 nghệ sĩ điện ảnh được tôn vinh trong lễ kỉ niệm 55 năm thành lập ngành Điện ảnh Cách mạng Việt Nam.
Đánh giá
Tác phẩm
Phim hoạt hình
Năm | Phim | (Đồng) đạo diễn | Biên kịch | Sản xuất | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
1963 | Một ước mơ | — | XPHHVN | ||
1965 | Mèo con | — | Nguyễn Thế Hội | [8][9] | |
1967 | Con sáo biết nói | — | Tất Vinh | [10][11] | |
1968 | Những chiếc áo ấm | — | Võ Quảng | [12] | |
1970 | Chuyện ông Gióng | — | Tô Hoài | [13] | |
1972 | Lời đáng yêu nhất | — | Văn Biển | [12] | |
1973 | Rồng lửa Thăng Long | — | Phan Trọng Quang, Ngọc Phương | [14] | |
1974 | Rừng hoa | — | Trần Ngọc Thanh | [15] | |
1976 | Bàn tay khổng lồ | NSND Trương Qua | Nguyễn Tường, NSND Trương Qua | [16] | |
Thạch Sanh | — | Tô Hoài | [17] | ||
1978 | Bộ đồ nghề nổi giận | NSND Phạm Minh Trí | Trần Quan Hùng | [18] | |
1982 | Bước ngoặt | — | |||
1993 | Trê Cóc | — | |||
1994 | Phép lạ hồi sinh | — |
Tranh
- Ký hoạ
- Bộ đội
- Nữ dân quân
- Mặt trận Điện Biên Phủ
- Chuẩn bị đánh đồn A1
- Quân và dân Nam Định đắp đê chống lụt
- Tranh sơn dầu
- Ngày tiếp quản
- Chiến sĩ Điện Biên
- Nữ dân quân ngoại thành
- Bà lão nông thôn Nga
- Chiều vàng
- Bên bìa rừng (1957)
- Cảnh làng Tarutxa (1957)
- Nắng cuối hè (1959)
- Nhà thờ Sain Isaac (1959)
Sách
- Truyện tranh
- Dế mèn phiêu lưu ký - Lời Tô Hoài
- Truyện trê cóc - Lời Tô Hoài
- Tú Uyên
- Cây tre trăm đốt - Lời Thảo Hương
- Nghiên cứu
- Phim hoạt họa Việt Nam - Ngô Mạnh Lân, Trần Ngọc Thanh, Nhà xuất bản Văn Hoá (1977).
- Hoạt hình nghệ thuật thứ tám: Vài nét về sự phát triển của nghệ thuật hoạt hình thế giới và hoạt hình Việt Nam - Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin (1999).
Ngoài ra ông còn là tác giả minh họa nhiều bìa sách, tranh cổ động, và là tác giả của 2 bộ tem mang tên Kỷ niệm những ngày lịch sử của đất nước và Quan Âm Thị Kính.[19]
Thành tựu
Danh hiệu
- Nghệ sĩ ưu tú (1984).[20][21]
- Nghệ sĩ nhân dân (1997).[22]
Học vị/ Học hàm/ Huân chương
- Tiến sĩ nghệ thuật học (1984).[6]
- Phó giáo sư (1991).[6]
- Huân chương Lao động hạng Nhất (1988).[6]
Giải thưởng
Năm | Lễ trao giải | Hạng mục | Tác phẩm | Kết quả | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
1966 | Liên hoan phim hoạt hình quốc tế I tại Mamaia | Phim hoạt hình | Mèo con | Bồ nông bạc | |
1967 | Liên hoan phim quốc tế Frankfurt | Bằng khen | [23] | ||
1970 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 1 | Bông sen vàng | [8][9] | ||
Con sáo biết nói | Bông sen vàng | [10][11] | |||
Những chiếc áo ấm | Bông sen bạc | [12] | |||
1971 | Liên hoan phim tài liệu và hoạt hình quốc tế Leipzig | Chuyện ông Gióng | Bồ câu vàng | [13] | |
1973 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2 | Bông sen vàng | |||
Lời đáng yêu nhất | Bằng khen | [12] | |||
1975 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 3 | Rừng hoa | Bông sen bạc | [15] | |
1977 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 4 | Thạch Sanh | Bằng khen | [17] | |
1980 | Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 5 | Bộ đồ nghề nổi giận | Bằng khen | [18] |
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật đợt II (2007).[6][24]
Đời tư
Ông là người bạn đời của nữ diễn viên điện ảnh Phan Ngọc Lan, là diễn viên khóa đầu tiên của Trường Điện ảnh Việt Nam. Ngô Mạnh Lân gặp Ngọc Lan tại Moskva khi bà tham gia dự Liên hoan phim Quốc tế Moskva năm 1961, lúc này ông là lưu học sinh tại trường VGIK.[25] Hai ông bà kết hôn cuối năm 1962 và có được 4 người con mang tên Ngô Phương Lan, Ngô Phương Ly, Ngô Lê, Ngô Lâm. Người con gái cả Ngô Phương Lan hiện nay là tiến sĩ, nhà lý luận điện ảnh – nguyên Cục trưởng Cục Điện ảnh Việt Nam.[26][27] Cháu ngoại đầu của ông là đạo diễn Đinh Tuấn Vũ.[28][29]
Chú thích
Nguồn
Liên kết ngoài
- Ngô Mạnh Lân - họa sĩ của tâm hồn trẻ Lưu trữ 2007-10-16 tại Wayback Machine