Phạm Nhuệ Giang

NSND, nữ đạo diễn phim Việt Nam

Phạm Nhuệ Giang (sinh ngày 19 tháng 12, 1957) là nhà biên kịch - đạo diễn phim, Nghệ sĩ nhân dân Việt Nam. Bà là một trong số ít những đạo diễn nữ ở Việt Nam, bà thành công với nhiều bộ phim điện ảnh lẫn truyền hình như: Thung lũng hoang vắng, Hậu họa, Trò đời, Lập trình cho trái tim... Trong số đó có những phim đoạt giải Bông sen bạc, Cánh diều vàng...

Nghệ sĩ Nhân dân
Phạm Nhuệ Giang
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
19 tháng 12, 1957 (66 tuổi)
Nơi sinh
Hà Nội, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Giới tínhnữ
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệp
  • Đạo diễn
  • Biên kịch
Gia đình
Bố mẹ
Phạm Văn Khoa
Chồng
Nguyễn Thanh Vân
Đào tạoTrường Âm nhạc Việt Nam
Danh hiệuNghệ sĩ nhân dân (2015)
Sự nghiệp điện ảnh
Năm hoạt động1985 – nay
Đào tạoTrường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội
Thể loạiPhim truyện
Tác phẩmCây bạch đàn vô danh
Bỏ trốn
Thung lũng hoang vắng
Lập trình cho trái tim
Tâm hồn mẹ
Lạc lối
Trò đời
Giải thưởngGiải thưởng Nhà nước (2017)
Giải thưởng
Giải Mai Vàng (2002)
Đạo diễn Phim điện ảnh - Phim truyền hình được yêu thích nhất
Giải Cánh diều 2009 (2010)
Đạo diễn xuất sắc
Website

Tiểu sử

Phạm Nhuệ Giang là con thứ út trong gia đình có hai anh em, mẹ là diễn viên Bích Châu, bố là đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa, bố mẹ bà sau này đã ly hôn.

Nhuệ Giang sinh tại Hoàn Kiếm, Hà Nội, tên của của bà được đặt theo tên sông Nhuệ (Hán Việt : Nhuệ Giang). Gia đền bên ngoại của bà là hậu duệ của tướng quân Nguyễn Hữu Chỉnh.[1]

Sự nghiệp

Nhuệ Giang được học đàn chuyên nghiệp từ lớp 1, học piano 9 năm tại trường Âm nhạc Việt Nam và là bạn cùng lớp với Đặng Thái Sơn.[2][3] Năm 1980, bà tốt nghiệp Đại học Xây Dựng[4] và có hai năm làm việc cho Công ty xây dựng số 1, từng làm giám sát xây dựng Cung Văn hóa Lao động Hữu nghị Việt Xô.[1] Năm 1983 bà tiếp tục nhập học Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh,[5] làm lại từ đầu và trở thành một trong những sinh viên khoa đạo diễn đầu tiên của trường.[6] Sau khi tốt nghiệp, bà công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam bắt đầu với vai trò phó đạo diễn và chỉ đạo sản xuất rồi trở thành nữ đạo diễn duy nhất của hãng trong hơn 30 năm.[7] Theo tiêu chí của Hãng phim, để trở thành đạo diễn chính thức như các đồng nghiệp khác Phạm Nhuệ Giang cũng phải trải qua vị trí Phó đạo diễn cho 3 bộ phim. Bà từng làm phó cho đạo diễn Đặng Nhật Minh qua các bộ phim Trở về, Thương nhớ đồng quê, Hà Nội Mùa đông 46Mùa ổi.[8]

Trong sự nghiệp đạo diễn của mình, Phạm Nhuệ Giang làm phim không nhiều, nhưng bộ phim nào ra mắt đều được công chúng trong nước và quốc tế đón nhận nồng nhiệt. Phim ngắn Chú bé culi của bà được kênh truyền hình Canal+ của Pháp mua lại vào năm 1992.[9][8]

Bà tự chuyển thể bộ phim điện ảnh đầu tay của mình là "Bỏ trốn” từ truyện ngắn của Phan Thị Thanh Nhàn; bộ phim sau đó giành giải B của Giải thưởng Hội Ðiện ảnh Việt Nam 1996 và Giải thưởng Ban giám khảo bình chọn tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12.[4][10] Năm 1996, sau khi làm xong phim “Bỏ trốn”, bà có ý định chuyển thể tiếp truyện ngắn "Tâm hồn mẹ" nhưng cốt truyện quá ngắn, không có nhiều tình tiết để các nhà biên kịch phát triển thê. Một thời gian dài sau khi nhiều nhà biên kịch từ chối, Phạm Nhuệ Giang đã tự mình hoàn thành kịch bản phim này.[11] Năm 1997, Nhuệ Giang viết kịch bản và đạo diễn bộ phim truyền hình Mọi thời của họ.[4] Bộ phim Thung lũng hoang vắng năm 2001, đã đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp đạo diễn của bà. Bộ phim giành giải Bông sen bạc, một giải thưởng của Liên hoan phim Melbourne, còn bà được giải Mai Vàng; bộ phim cũng mang lại cho diễn Hồng Ánh giải Bông Sen Bạc cho vai nữ chính và giải quay phim xuất sắc cho nhà quay phim Lý Thái Dũng.[4][10] Nhuệ Giang cũng là một người tuyển trạch diễn viên mát tay, khi lựa được những diễn viên không chuyên để lại ấn tượng trong các bộ phim bà tham gia sản xuất, như: Mai Hoa cho Đời cát, Lan Hà cho Trái tim bé bỏng và Thu Trang cho Thung lũng hoang vắng.[8]

Năm 2003, Nhuệ Giang gác lại mọi công việc để bắt tay vào học tiếng Anh, khi nhận được suất học bổng master về nghệ thuật của Quỹ Ford.[7] Năm 2005, bà dành một tháng để nghiên cứu lịch sử điện ảnh rồi giảng dạy trong sáu năm tiếp theo.[8] Năm 2011, bà cho ra mắt bộ phim điện ảnh Tâm hồn mẹ sau hơn 20 năm lên ý tưởng và dựng kịch bản.[12] Bộ nhận được bằng khen của ban giám khảo Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17[13] và giải Phim xuất sắc do ban giám khảo Liên hoan phim Việt Nam tại Pháp bình chọn.[14]

Từ khi nghỉ hưu năm 2015, Nhuệ Giang tiếp tục đóng góp cho nghệ thuật khi giảng dạy đạo diễn tại Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, làm giám khảo chấm giải tại Trung tâm Hỗ trợ tài năng và phát triển điện ảnh Việt Nam, biên kịch và làm phim truyền hình.[3] Bà có được thành công nhất định khi làm phim truyền hình với các phim Sống gượng, Hậu họa, Trò đời...

Gia đình

Sau thời gian cùng thực tập khi quay bộ phim "Đứng trước biển", bà kết hôn với đạo diễn Nguyễn Thanh Vân, con trai đạo diễn Hải Ninh. Việc kết hôn của họ dù không có sự đồng thuận từ bố mẹ vì chênh lệch tuổi tác.[1]

Tác phẩm

NămTựa đềĐịnh dạngVai tròGhi chú
1985Đứng trước biểnĐiện ảnhThực tập sinhĐạo diễn: Trần Phương[15]
1992Chú bé Cu-liPhim ngắnĐạo diễnĐồng đạo diễn: Phạm Thanh Phong[16]
Chuyện tình trong ngõ hẹpĐiện ảnhPhó đạo diễnĐạo diễn: Nguyễn Thanh Vân
1994Cây Bạch Đàn vô danh
Trở vềĐạo diễn: Đặng Nhật Minh
1995Thương nhớ đồng quêĐiện ảnh
1996Bỏ trốnĐạo diễn / Biên kịchPhim điện ảnh đầu tay
1997Hà Nội mùa đông năm 46Phó đạo diễnĐạo diễn: Đặng Nhật Minh
Mọi thời của họNgắn tậpĐạo diễn / Biên kịch[4]
1998Khoảng vỡĐiện ảnhPhó đạo diễnĐạo diễn: Nguyễn Thanh Vân
1999Đời cát
2002Thung lũng hoang vắngĐiện ảnhĐạo diễn
2000Mùa ổiPhó đạo diễnĐạo diễn: Đặng Nhật Minh
2003Người đàn bà mộng duĐạo diễn: Nguyễn Thanh Vân
Vào đờiĐiện ảnh truyền hìnhĐạo diễn[17]
2007Hậu họaPhim truyền hình
2009Khoan nói lời yêu thương
2009Lập trình cho trái timĐồng đạo diễn (phần 1)

Đạo diễn (phần 2)

2011Tâm hồn mẹĐiện ảnhĐạo diễn / Biên kịch
2013Lạc lốiĐồng biên kịch: Nguyễn Quang
Trò đờiDài tậpĐạo diễn
2015Chuyện tình rừng ngập mặn
2019Sống gượng

Giải thưởng

Giải thưởng cá nhân

  • 2010 - Giải Cánh diều 2009 - đạo diễn xuất sắc hạng mục phim video, phim Khoan nói lời yêu thương.[5]

Giải thưởng cho tác phẩm

NămTổ chứcPhimHạng mụcKết quảGhi chú
1996Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt NamBỏ trốnPhim truyện nhựaGiải B
1999Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12Giải của Ban giám khảoĐoạt giải
2001Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 13Thung lũng hoang vắngPhim điện ảnhGiải Bông sen bạc
2002Giải thưởng Hội Điện ảnh Việt Nam 2001Phim truyện nhựaGiải BNăm này không có giải A
LHP quốc tế MelbourneGiải Fipresci cho các đạo diễn trẻ châu ÁĐoạt giảiGiải thưởng của Liên đoàn Các nhà phê bình phim quốc tế
2008Giải Cánh diều 2007Hậu họaPhim truyền hìnhCánh diều vàng
2010Giải Cánh diều 2009Lập trình cho trái timKhuyến khích
Khoan nói lời yêu thươngPhim video / phim ngắn tậpCánh diều vàngphim giành thêm giải cho đạo diễn và nam diễn viên chính[20]
2011Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17Tâm hồn mẹGiải thưởng Ban giám khảo
2012Giải Cánh diều 2012Lạc lốiPhim điện ảnhCánh diều bạcPhim giành thêm giải cho Âm Nhạc[21][22]
2013Liên hoan phim quốc tế các nữ đạo diễn tại DortmundTâm hồn mẹVào được chung kết[23]
2014Liên hoan phim Việt Nam tại PhápPhim xuất sắc nhấtĐoạt giảiPhim còn nhận giải Nam diễn viên chính xuất sắc [24]
Giải khán giả bình chọnĐoạt giải
Ấn tượng VTVTrò đờiPhim truyền hình ấn tượngĐề cử

Tham khảo