Trần Quý Kiên

chính trị gia người Việt Nam

Trần Quý Kiên (1911-1965) là một nhà cách mạng Việt Nam, ( bị thực dân Pháp giam cầm 11 năm tù). Ông thuộc lớp đảng viên đầu tiên thời lập quốc và cũng là lớp lãnh đạo sớm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ Bí thư Thành ủy Hà Nội -Thường Vụ xứ ủy Bắc Kỳ(1938-1940),Bí thư Đảng ủy căn cứ địa trung ương ATK Việt Bắc 1949, Thứ trưởng - Phó văn phòng Thủ tướng 1950

Đồng chí Trần Quý Kiên trong nhà tù thực dân Pháp tháng 12/1940

(khi Hồ Chí Minh là thủ tướng chính phủ), Phó Ban Tổ chức TƯ[1][2][3]1951.Bí thư đầu tiên của Đảng ủy khối các cơ quan trung ương 1953. Ông được nhà nước truy tặng Huân chương Sao Vàng cao quý nhất của Việt Nam.

Tiểu sử

Ông Trần Quý Kiên (ngồi giữa) đi công tác với chủ tịch Hồ Chí Minh
Ông Trần Quý Kiên (bên phải) đi công tác với Chủ Tịch Hồ Chí Minh.

Ông tên thật là Đinh Xuân Nhạ (bí danh :Trần Quý Kiên, Dương Văn Ty). Sinh năm 1911 tại Bến Nứa, Hà Nội. Quê gốc là dòng họ Đinh Xuân ở làng Phượng Vũ, xã Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội).

Vào đảng 5/1930, Ông là một trong ba đảng viên đầu tiên của Đội Tuyên truyền xung phong (là Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội sau này). 11/10/1930 Ông trách một nhóm tuyên truyền vào dịp kỷ niệm lần thứ 13 Cách mạng Tháng Mười Nga ,Ông bị thực dân Pháp truy lùng và bắt giam, tuyên án 10 năm tù khổ sai [4][5][6] tại Nhà tù Hỏa LòNhà tù Sơn La [7][8][9]

Ra tù Ông và các đồng chí xây dựng lại hầu hết các cơ sở trọng yếu của đảng đã bị giặc Pháp phá vỡ trước đó. 8/1936 ông cùng hai đồng chí Nguyễn Văn CừNguyễn Văn Minh thành lập Ủy ban sáng kiến là cơ quan lãnh đạo lâm thời của Xứ ủy Bắc Kỳ .[10][11] 3/1937 ông cùng các đồng chí : Trường Chinh, Tô Hiệu, Lương Khánh Thiện,Nguyễn Văn Cừ...vv.. tái thành lập lại Xứ Ủy Bắc Kỳ và Thành ủy Hà Nội. 4/1937 Ông cùng đ/c Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Linh...tham gia tái lập Thành uỷ Hải Phòng[12][13] .Rồi 11/1937 Ông tham gia thành lập liên Xứ Ủy Bắc Kỳ - Bắc Trung Kỳ .Năm 1938 Ông trực tiếp về thành lập hai chi bộ đảng đầu tiên của tỉnh Sơn Tây&Hà Đông.[14]

Giai đoạn 4/1938-6/1940, Ông là Bí Thư Thành ủy Hà Nội, rồi vào ban lãnh đạo cao nhất là Ban Thường vụ Xứ Ủy Bắc Kỳ với Hoàng Văn ThụLương Khánh Thiện[15] sau đó Ông bị Pháp bắt lần thứ hai.[16]

Tháng 3/1945 Ông vượt ngục.[17]4/1945 Ông là Bí thư Chiến khu Quang Trung (Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa) và hai tỉnh Sơn LaLai châu với bí danh Dương Văn Ty.[18] Tới tháng 9 và tháng 10/1945 thì trực tiếp lãnh đạo giải phóng hai tỉnh Sơn La, Lai Châu.[19]

1946 bịnh nặng ông về làm Bí thư tỉnh Quảng Yên, rồi Uỷ viên thường vụ Liên Khu 3, phụ trách liên tỉnh Hải Dương - Hưng YênKiến An - Thái Bình.[20] Kiêm Trưởng ban Kiểm tra Đảng LK3 (gồm 12 tỉnh đồng bằng bắc bộ và 1 tỉnh miền núi là Hoà Bình)[20]

Tháng 7/1949 Ông là Trưởng Ban - Bí thư Đảng ủy Căn Cứ Địa Trung Ương ATK Việt Bắc cơ quan đầu não của kháng chiến (gồm 6 tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang).[21]

Tháng 11/1950 ông giữ chức Bí thư đầu tiên của đảng ủy Khối các cơ quan Dân Chính Đảng TƯ[20] đồng thời là Thứ trưởng - Phó văn phòng Thủ tướng chính phủ.[22]Tháng 4/1951 ông được bổ nhiệm là Phó Trưởng ban Tổ chức TƯ Đảng.[23]

1953 bệnh nặng Ông được Đảng và Chính phủ đưa đi chữa bệnh ở nước ngoài một thời gian khá dài. Về nước, ông nhận trách nhiệm thay mặt Chủ tịch nước điều tra sửa sai trong công tác cải cách ruộng đất tại tỉnh Vĩnh Phúc.[24]

Năm 1958 ông là Bí thư Đảng Đoàn, Thứ trưởng thứ nhất Bộ Thủy lợi và điện lực.[25]

Ông mất tại Hà Nội năm 1965 do bệnh nặng.

Huân chương Sao Vàng truy tặng đồng chí Trần Quý Kiên
Gia đình đồng chí Trần Quý Kiên

Vinh danh

Tên ông được đặt cho 4 con đường tại 4 thành phố lớn của đất nước :Tại Hà Nội.Thành phố Hồ Chí Minh.Thành phố Đà Nẵng và kinh thành Huế.


Huân chương

Gia đình

Vợ ông là bà Lê Thị Tấn (tức Nguyễn Thị Đáp). Bà đã một mình thay ông đùm bọc nuôi dạy sáu người con trưởng thành khôn lớn. Bà cũng là một chiến sĩ cách mạng được trao tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huy chương Kháng chiến hạng nhất và Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng.

Tham khảo