Vua La Mã Đức

tước hiệu được vua Đức sử dụng sau khi được các hoàng tử bầu lên từ triều Henry II (1002–1024) trở đi
(Đổi hướng từ Vua của người La Mã)

Vua của người La Mã (tiếng Latinh: Romanorum Rex), hay Vua La Mã Đức (tiếng Đức: Römisch-deutscher König), là danh hiệu dành cho người cai trị Đế quốc La Mã Thần thánh sau khi người này được bầu đảm nhận chức trách bởi các Tuyển hầu tước của Đế quốc. Danh hiệu này là điều đảm bảo cho vị quân chủ được chọn có thể trở thành Hoàng đế La Mã Thần thánh, một danh hiệu mà trong thời Trung Cổ mang cả khía cạnh tôn giáo và phụ thuộc vào sự đăng quang bởi Giáo hoàng.

Huy hiệu của Joseph II, vị Quốc vương của người La Mã cuối cùng được biết đến.

Ban đầu, danh hiệu này để chỉ bất kỳ người cai trị của Đế quốc khi chưa được Giáo hoàng tấn phong; danh hiệu này về sau để chỉ người thừa kế chính thức (như Hoàng thái tử ở thế giới Đông Á) đối với ngai vàng của Đế quốc trong giai đoạn giữa cuộc bầu cử ông ta (diễn ra lúc Hoàng đế trước còn tại vị) cho đến lúc đăng quang sau cái chết của vị Hoàng đế tiền nhiệm.

Các vị vua cai trị Đế quốc

Lịch sử và cách dùng

Kể từ sự đăng quang của Charlemagne vào Giáng Sinh năm 800, mặc nhiên xuất hiện một chức vị Hoàng đế được xem là cao hơn tất cả các nhà cai trị trên toàn Tây Âu. Người ta thừa nhận một quy tắc rằng, chức vị này không thể tách rời khỏi vai trò người bảo vệ Giáo hội Công giáo và mang tính thiêng liêng bởi sự tấn phong của Giáo hoàng, và do đó việc đăng quang ở Roma là bắt buộc để nhận danh hiệu hoàng đế. Tuy nhiên, thật khó khăn để cho một vị vua được bầu lên làm Hoàng đế có để tới Roma ngay lập tức để đăng quang. Giữa việc đắc cử và đăng quang có thể kéo dài vài năm; thậm chí vài vị vua chưa bao giờ đến được Roma cả.

Do đó cần một danh hiệu nào đó cho vị vua trong những năm trống đó, thích hợp cho vị thế của vị vua được bầu cũng như đảm bảo cho ông sẽ được bầu làm Hoàng đế trong tương lai, trong khi không vi phạm nguyên tắc Giáo hoàng tấn phong. Danh hiệu Quốc vương của người La Mã (Romanorum Rex) đôi khi được sử dụng bởi các quân chủ nhà Otto và đặc biệt bởi Hoàng đế Heinrich II để nhấn mạnh sự kế thừa Đế quốc La Mã thời cổ đại của Thánh chế La Mã, điều này luôn bị Đế chế Byzantine từ chối thừa nhận.

Quốc vương của người La Mã trở thành danh hiệu chính thức trong thời kỳ 1056-1084, khi Hoàng đế Heinrich IV, được bầu thành người cai trị Đế quốc, và Giáo hoàng Grêgôriô VII áp đặt danh hiệu Quốc vương của người Đức (Teutonicorum Rex) để nhắc nhở rằng quyền lực của Heinrich chỉ có tính chất địa phương mà không bao trùm Đế quốc. Để đáp lại, Heinrich bắt đầu thường xuyên sử dụng Vương hiệu Romanorum Rex cho tới lúc đăng quang năm 1084. Những người kế vị về sau tiếp nối cách thức này.

Tiến trình kế ngôi

Vương miện sắt của Lombardy.

Ứng viên là những người đứng đầu các Đại công quốc ở Đức, nhưng về sau nguyên tắc này bị giảm trừ (đã có các vương hầu ở các lãnh địa nhỏ và kể cả người nước ngoài đã từng đắc cử), chỉ còn lại điều kiện phải là đàn ông trưởng thành, theo Công giáo chính thống, và không nắm giữ chức vụ tôn giáo.

Ngôi vị được bầu bởi một hội đồng quý tộc Đức, được gọi là Tuyển hầu tước. Cuộc bầu chọn thông thường diễn ra ở Frankfurt. Vị tân vương đăng quang là Quốc vương của người La Mã sau đó ở Aachen.

Theo nghi thức, nhà vua có thể băng qua dãy Anpơ, tới Pavia hoặc Milan để nhận Vương miện Sắt của Lombardy để trở thành Quốc vương nước Ý. Cuối cùng, vị vua đó cần tới Roma được tuyên bố là Hoàng đế bởi Giáo hoàng. Không phải tất cả các Quốc vương của người La Mã đều tiến hành các bước trên, đôi khi bởi vì quan hệ thù nghịch với Giáo hoàng đương thời, khi khác vì gánh nặng tài chính cho một chuyến đi Roma, hoặc tình trạng chiến tranh ở Đức hoặc Italia ngăn cản điều đó. Trong những trường hợp như vậy, nhà vua giữ danh hiệu Quốc vương của người La Mã trong suốt thời trị vì của mình.

Thay đổi

Danh hiệu Quốc vương của người La Mã không còn dùng để chỉ người đứng đầu Đế quốc kể từ năm 1507, khi sau một dự định đi tới Roma bất thành, Hoàng đế Maximilian I được Giáo hoàng trao cho danh hiệu "Hoàng đế được bầu của người La Mã" (Electus Romanorum Imperator). Maximilian cũng nhân dịp này tự xưng danh hiệu mới, Quốc vương nước Đức (King in Germany; Germaniae Rex) nhưng không bao giờ dùng như danh hiệu chính.

Các nhà cai trị Đế quốc từ đó tự gọi mình là Hoàng đế mà không cần phải đi tới Roma hay xin sự ủng hộ của Giáo hoàng, ngay khi họ đăng quang ở Đức hay ngay sau Hoàng đế tiền nhiệm băng hà. Chỉ có một vị duy nhất, Charles Quint là được Giáo hoàng tấn phong.

Danh sách

Dưới đây là những vị Quốc vương của người La Mã đã cai trị Đế quốc mà không dưới quyền một ai cả, nhưng chưa được đăng quang là Hoàng đế.

Nhà vuaTrở thành VuaNgừng làm vuaKhác
NgàyLý do
Otto III983996đã đăng quang Hoàng đế
Heinrich II10021014đã đăng quang Hoàng đế
Konrad II10241027đã đăng quang Hoàng đế
Heinrich III10391046đã đăng quang Hoàng đế
Heinrich IV10561084đã đăng quang Hoàng đế
Rudolf25 Tháng Năm 107715 Oct 1080chếtVua đối lập
Hermann6 tháng Tám 108128 tháng Chín 1088chếtVua đối lập
Heinrich V11051106đối lập với Heinrich IV
11061111đã đăng quang Hoàng đế
Lothair III11251133đã đăng quang Hoàng đế
Konrad III11271135đối lập với Lothair
11381152chết
Frederick I11521155đã đăng quang Hoàng đế
Heinrich VI11901191đã đăng quang Hoàng đế
Frederick II11971197thoái vị
Philip11981208chết
Otto IV11981208đối lập với Philip
12081209đã đăng quang Hoàng đế
Frederick II12121220đã đăng quang Hoàng đế
Heinrich Raspe22 Tháng Năm 124616 Tháng Hai 1247chếtVua đối lập
William của Holland124728 Tháng Một 1256chếtVua đối lập
Konrad IV12501254chết
Richard của Cornwall12571272chưa bao giờ là người cai trị thực sự của Đức
Alfonso của Castile12571275Vua đối lập với người trên, chưa bao giờ là người cai trị thực sự của Đức
Rudolph I12731291chết
Adolph12921298bị phế truất và bị giết
Albert I12981308chết
Heinrich VII13081312đã đăng quang Hoàng đế
Frederick Công bằng13141322đối lập với Louis IV
13261330đồng thời với Louis IV
Louis IV13141328đã đăng quang Hoàng đế
Karl IV13461347đối lập với Louis V
13471355đã đăng quang Hoàng đế
Wenceslaus13781400bị phế truất
Rupert14001410chết
Jobst của Moravia14101411chếtđối lập với Sigismund
Sigismund14101411bầu lần haiđối lập với Jobst
14111433đã đăng quang Hoàng đế
Albert II14381439chết
Frederick III14401452đã đăng quang Hoàng đế
Maximilian I14931508được thừa nhận danh hiệu Hoàng đế

Người thừa kế được chỉ định

Đế quốc La Mã Thần thánh là một nền quân chủ bầu cử. Không ai có quyền hợp pháp để kế vị nếu đơn thuần chỉ vì có họ hàng với Hoàng đế đương thời. Tuy nhiên, các Hoàng đế có thể, và họ thường làm vậy, chọn một người thân (thường là con trai) được bầu để kế vị sau khi họ mất. Người thừa kế chính thức này mang danh hiệu "Quốc vương của người La Mã" (King of the Romans)[1]

Cuộc bầu cử diễn ra theo đúng hình thức bầu cử người tiền nhiệm (và là Hoàng đế tại vị), và về mặt lý thuyết điều này có nghĩa là cả hai người là những nhà cai trị ngang hàng đồng thời của Đế quốc. Tuy nhiên trong thực tế, quyền quản lý thực sự luôn nằm trong tay Hoàng đế, nhiều lắm chỉ một số trách nhiệm nào đó được ủy thác cho người thừa kế.

Danh sách

Dưới đây là các vị Quốc vương của người La Mã nằm dưới quyền một Hoàng đế La Mã Thần thánh:

TênNgày lên ngôiNgày thôi chứcLý doHọ hàngHoàng đế đang trị vì
Otto II9617 Tháng Năm 973thừa kế ngôi vua (Hoàng đế năm 967)con traiOtto I
Heinrich III10284 Tháng Sáu 1039thừa kế ngôi vua (Hoàng đế năm 1046)con traiKonrad II
Heinrich IV10535 Tháng Mười 1056thừa kế ngôi vua (Hoàng đế năm 1084)con traiHeinrich III
Konrad1087Tháng Tư 1098bị phế truấtcon traiHeinrich IV
Heinrich V6 Tháng Một 10991105thừa kế ngôi vua (Hoàng đế năm 1111)con traiHeinrich IV
Heinrich Berengar30 Tháng Ba 11471150chếtcon traiKonrad III
Heinrich VI116910 Tháng Sáu 1190thừa kế ngôi vua (Hoàng đế năm 1191)con traiFrederick I
Frederick II119628 Tháng Chín 1197kế vị và thoái vị (chuyển sang nhiếp chính) 1197
Vua được bầu (với sự đối lập) 1212
Hoàng đế năm 1220
con traiHeinrich VI
Heinrich (VII)12204 Tháng Bảy 1235bị phế truấtcon traiFrederick II
Konrad IV123713 Tháng Mười hai 1250thừa kế ngôi vuacon traiFrederick II
Wenceslaus10 Tháng Sáu 137629 Tháng Mười một 1378thừa kế ngôi vuacon traiKarl IV
Maximilian I16 Tháng Hai 148619 Tháng Tám 1493thừa kế ngôi vua (Hoàng đế năm 1508)con traiFrederick III
Ferdinand I5 Tháng Một 15313 Tháng Năm 1558thừa kế ngôi Hoàng đếem traiKarl V
Maximilian II28 Tháng Mười một 156225 Tháng Bảy 1564thừa kế ngôi Hoàng đếcon traiFerdinand I
Rudolph II27 Tháng Mười 157512 Tháng Mười 1576thừa kế ngôi Hoàng đếcon traiMaximilian II
Ferdinand III22 Tháng Mười hai 163615 Tháng Hai 1637thừa kế ngôi Hoàng đếcon traiFerdinand II
Ferdinand IV31 Tháng Năm 16539 Tháng Bảy 1654chếtcon traiFerdinand III
Joseph I23 Tháng Một 16905 Tháng Năm 1705thừa kế ngôi Hoàng đếcon traiLeopold I
Joseph II27 Tháng Ba 176418 Tháng Tám 1765thừa kế ngôi Hoàng đếcon traiFranz I

Đế chế thứ nhất của Pháp

Khi Napoleon I có con trai và người thừa kế, Napoleon II, ông đã phục hồi danh hiệu Vua Roma và đặt cho con mình. Đứa trẻ thường được biết đến một cách thông tục bằng danh hiệu đó suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, dù sau 1815 cậu ta thường mang danh hiệu Công tước của Reichstadt.

Chú giải

Tham khảo

Bài này liên hệ với bài trên Wikipedia tiếng Đức mà đến lượt nó chủ yếu tham khảo ở:

  • H. Beumann: Rex Romanorum, trong Lexikon des Mittelalters (Từ điển thời Trung Đại, 9 tập, Munich-Zurich 1980-98), tập 7,mục 777.