Wannabe
"Wannabe" là một bài hát của nhóm nhạc nữ người Anh Spice Girls nằm trong album phòng thu đầu tay của họ, Spice (1996). Nó được phát hành vào ngày 8 tháng 7 năm 1996 bởi Virgin Records như là đĩa đơn đầu tiên trích từ album, đồng thời là đĩa đơn đầu tay trong sự nghiệp của nhóm. Bài hát được viết lời bởi tất cả các thành viên của Spice Girls với Matt Rowe và Richard Stannard, những người cũng đảm nhận phần sản xuất nó. "Wannabe" được sáng tác và thu âm rất nhanh chóng, một kết quả được coi là mờ nhạt bởi hãng đĩa của họ, và đã được gửi đến Dave Way để phối lại. Tuy nhiên, nhóm đã không hài lòng với kết quả này, và quyết định để Mark "Spike" Stent thực hiện. Đây là một bản uptempo dance-pop được bắt đầu bằng đoạn rap của Mel B và Geri Halliwell, với nội dung nói lên giá trị về tình bạn của phái nữ trên các phương diện về quan hệ tình dục khác giới, đã trở thành một biểu tượng về nữ quyền và là bài hát điển hình nhất cho triết lý "Sức mạnh Phụ nữ" của Spice Girls.
"Wannabe" | |
---|---|
Bài hát của Spice Girls từ album Spice | |
Mặt B | "Bumper to Bumper" |
Phát hành |
|
Định dạng | |
Thu âm | 1995–96 |
Thể loại | Dance-pop |
Thời lượng | 2:52 |
Hãng đĩa | Virgin |
Sáng tác |
|
Sản xuất |
|
Video âm nhạc | |
"Wannabe" trên YouTube |
Sau khi phát hành, "Wannabe" nhận được những đánh giá trái chiều từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu vui tươi và phấn khởi của nó, nhưng cũng vấp phải nhiều chỉ trích xoay quanh phần rap cũng như quá trình sản xuất bài hát. Tuy nhiên, nó đã gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm Đĩa đơn quốc tế của năm tại giải thưởng Ivor Novello và Đĩa đơn xuất sắc nhất tại giải Brit năm 1997. Bài hát cũng tiếp nhận những thành công ngoài sức tưởng tượng về mặt thương mại với việc đứng đầu các bảng xếp hạng ở hơn 31 quốc gia,[2][3] bao gồm nhiều thị trường lớn như Úc, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ireland, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, và lọt vào top 10 ở tất cả những quốc gia nó xuất hiện. Tại Hoa Kỳ, "Wannabe" đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 trong bốn tuần liên tiếp, trở thành đĩa đơn quán quân đầu tiên và duy nhất của Spice Girls tại đây. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 7 triệu bản trên toàn cầu, trở thành đĩa đơn bán chạy nhất bởi một nhóm nhạc nữ, đồng thời là một trong những đĩa đơn bán chạy nhất một thời đại.[4]
Video ca nhạc cho "Wannabe" được đạo diễn bởi Jhoan Camitz, trong đó bao gồm những cảnh Spice Girls chạy nhảy, ca hát, khiêu vũ và tạo ra nhiều trò nghịch ngợm tại một bữa tiệc của người Bô-hem. Nó đã chiến thắng một hạng mục tại giải Video âm nhạc của MTV năm 1997 cho Video Dance xuất sắc nhất, và nhận được nhiều lượt yêu cầu phát sóng liên tục trên những kênh truyền hình âm nhạc như MTV và VH1. Để quảng bá bài hát, nhóm đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm Saturday Night Live, The Oprah Winfrey Show, Top of the Pops và giải Brit năm 1997, cũng như trong tất cả những chuyến lưu diễn của họ. Được ghi nhận là bài hát trứ danh trong sự nghiệp của họ, "Wannabe" được xem như bước tiến đột phá trong việc đưa nhóm nhạc trở thành những ngôi sao toàn cầu và mở ra thời đại "Spicemania" vào cuối thập niên 1990.[5][6] Ngoài ra, nó còn được ca ngợi như là một "bài hát biểu tượng cho quyền lực phụ nữ",[7][8] và được đánh giá là bài hát nhạc pop dễ nhận biết nhất trong hơn 60 năm qua.[4] Bài hát đã được hát lại và nhại lại bởi rất nhiều nghệ sĩ, bao gồm "Weird Al" Yankovic, Foo Fighters, the Veronicas, Fifth Harmony, DNCE, Girls' Generation và dàn diễn viên của Glee, cũng như xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, như The Big Bang Theory, Chicken Little, Family Guy, Madagascar 3: Europe's Most Wanted, Mom, The Muppets, The Simpsons và Sleepover.
Danh sách track và định dạng
Thành phần thực hiện
- Spice Girls – Sáng tác, trình diễn
- Matt Rowe – Sáng tác, sản xuất, đàn phím và lập trình
- Richard Stannard – lời bài hát, sản xuất, đàn phím và lập trình
- Mark "Spike" Stent – Người phối khí
- Adrian Bushby – Giám đốc ghi âm
- Patrick McGovern – trợ lý
Nguồn: Windswept Pacific Music Ltd/PolyGram Music Publishing Ltd.[9]
Xếp hạng
Xếp hạng cuối năm
Bảng xếp hạng (1996) | Vị trí |
---|---|
Australia (ARIA)[40] | 5 |
Austria (Ö3 Austria Top 40)[41] | 19 |
Belgium (Ultratop 50 Flanders)[42] | 12 |
Belgium (Ultratop 50 Wallonia)[43] | 11 |
Denmark (Tracklisten)[44] | 13 |
Europe (European Hot 100 Singles)[45] | 6 |
Finland (Suomen virallinen lista)[46] | 11 |
France (SNEP)[47] | 6 |
Germany (Official German Charts)[48] | 10 |
Italy (FIMI)[49] | 31 |
Netherlands (Dutch Top 40)[50] | 10 |
Netherlands (Single Top 100)[51] | 11 |
New Zealand (Recorded Music NZ)[52] | 15 |
Sweden (Sverigetopplistan)[53] | 10 |
Switzerland (Schweizer Hitparade)[54] | 18 |
UK Singles (Official Charts Company)[55] | 2 |
Bảng xếp hạng (1997) | Vị trí |
Australia (ARIA)[56] | 61 |
Canada (RPM)[57] | 69 |
Canada Dance (RPM)[58] | 1 |
US Billboard Hot 100[59] | 10 |
Xếp hạng thập niên
Bảng xếp hạng (1990–1999) | Xếp hạng |
---|---|
France (SNEP)[60] | 28 |
UK Singles (Official Charts Company)[61] | 12 |
US Billboard Hot 100[62] | 35 |
Xếp hạng mọi thời đại
Bảng xếp hạng | Xếp hạng |
---|---|
UK Singles (Official Charts Company)[63] | 81 |
US Billboard Hot 100[64] | 581 |
Chứng nhận
Quốc gia | Chứng nhận | Doanh số |
---|---|---|
Úc (ARIA)[65][66] | 2× Bạch kim | 140.000^ |
Bỉ (BEA)[67] | Vàng | 25.000* |
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[68] | Vàng | 45.000 |
Pháp (SNEP)[69] | Kim cương | 742,000[60] |
Đức (BVMI)[70] | Vàng | 0^ |
Ý (FIMI)[72] | Vàng | 300,000[71] |
Nhật Bản (RIAJ)[22] | Vàng | 100,000[22] |
Nhật Bản (RIAJ)[73] full-length Chaku-Uta | Vàng | 100.000* |
Hà Lan (NVPI)[74] | Vàng | 50.000^ |
New Zealand (RMNZ)[75] | Bạch kim | 15,000* |
Na Uy (IFPI)[76] | Bạch kim | 0* |
Thụy Điển (GLF)[77] | Vàng | 10,000^ |
Thụy Sĩ (IFPI)[78] | Vàng | 25.000^ |
Anh Quốc (BPI)[79] | 2× Bạch kim | 1,545,488[63] |
Hoa Kỳ (RIAA)[82] | Bạch kim | 2,910,000[80][81] |
Nhạc số | ||
Nhật Bản (RIAJ)[83] | Vàng | 100,000^ |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |
Xem thêm
Tham khảo
Tài liệu
- Beckham, Victoria (2001). Learning to Fly. Penguin Books Ltd. ISBN 0141003944.
- Blake, Andrew (1999). Living Through Pop. Routledge. ISBN 0415161991.
- Bloustien, Gerry (1999). Musical Visions. Wakefield Press. ISBN 1862545006.
- Bronson, Fred (2003). The Billboard Book of Number 1 Hits (ấn bản 5). Billboard Books. ISBN 0823076776.
- Brown, Melanie (2002). Catch a Fire: The Autobiography. Headline Book Publishing. ISBN 0755310632.
- Cripps, Rebecca (1997). Real Life: Real Spice The Official Story. Peachey, Mal; Spice Girls. Zone/Chameleon Books. ISBN 0233992995.
- De Ribera Berenguer, Juan (1997). Colección: Ídolos del Pop-Spice Girls (bằng tiếng Tây Ban Nha). Editorial La Máscara. ISBN 8479742364.
- Halliwell, Geraldine (1999). If Only. Delacorte Press. ISBN 0385334753.
- Halliwell, Geraldine (2003). Just for the Record. Ebury Publishing. ISBN 0091888042.
- McGibbon, Rob (1997). Spice Power: The Inside Story. Macmillan Publishers Ltd. ISBN 0752211420.
- Shuker, Roy (2001). Understanding Popular Music. Routledge. ISBN 041523509X.
- Sinclair, David (2004). Wannabe: How the Spice Girls Reinvented Pop Fame. Omnibus Press. ISBN 0711986436.
- Spice Girls (1997). Girl Power!. Zone/Chameleon Books. ISBN 0233991654.
- Spice Girls (2008). Spice Girls Greatest Hits (Piano/Vocal/Guitar) Artist Songbook. Hal Leonard Corporation. ISBN 1423436881.
- Whiteley, Sheila (2000). Women and Popular Music: Sexuality, Identity, and Subjectivity. Routledge. ISBN 0415211891.