Yayoi (tàu khu trục Nhật) (1925)

Yayoi (tiếng Nhật: 弥生) là một tàu khu trục hạng nhất thuộc lớp Mutsuki của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, bao gồm mười hai chiếc được chế tạo sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được xem là tiên tiến vào lúc đó, những con tàu này đã phục vụ như những tàu khu trục hàng đầu của Nhật trong những năm 1930, nhưng được xem là đã lạc hậu vào lúc Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra;[1] dù sao lớp Mutsuki vẫn được giữ lại ở tuyến đầu nhờ tầm xa hoạt động và kiểu ngư lôi mạnh mẽ mà chúng được trang bị.[2] Yayoi đã tham gia nhiều hoạt động khác nhau cho đến khi bị máy bay Mỹ đánh chìm tại khu vực quần đảo Solomon vào tháng 9 năm 1942.

Tàu khu trục Nhật Bản Yayoi, tháng 2 năm 1927
Lịch sử
Nhật Bản
Tên gọiTàu khu trục số 23
Xưởng đóng tàuUraga Dock Company
Đặt lườn11 tháng 1 năm 1924
Hạ thủy11 tháng 7 năm 1925
Hoạt động28 tháng 8 năm 1926
Đổi tênTàu khu trục số 23 thành Kisaragi: 1 tháng 8 năm 1928
Xóa đăng bạ20 tháng 10 năm 1942
Số phậnBị không kích đánh chìm gần đảo Vakuta ngày 11 tháng 9 năm 1942 08°45′N 151°25′Đ / 8,75°N 151,417°Đ / -8.750; 151.417
Đặc điểm khái quát
Lớp tàuLớp tàu khu trục Mutsuki
Trọng tải choán nước
  • 1.315 tấn (tiêu chuẩn);
  • 1.445 tấn (đầy tải)
Chiều dài
  • 97,54 m (320 ft) mực nước
  • 102,72 m (337 ft) chung
Sườn ngang9,16 m (30 ft)
Mớn nước2,96 m (9 ft 8 in)
Động cơ đẩy
  • 2 × Turbine hơi nước Metropolitan-Vickers
  • 4 × nồi hơi ống nước Ro-Gō Kampon
  • 2 × trục
  • công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)
Tốc độ69 km/h (37,25 knot)
Tầm xa
  • 6.700 km ở tốc độ 26 km/h
  • (3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)
Thủy thủ đoàn154
Vũ khí
  • 4 × hải pháo 120 mm/45 caliber Kiểu 3,
  • 2 × súng máy 7,7 mm Kiểu 92,
  • 2 × ống phóng ngư lôi Kiểu 12 ba nòng
  • (12 × ngư lôi Kiểu 8 610 mm),
  • 18 × mìn sâu
  • 16 × thủy lôi Ichi-Gō
Yayoi đang bị tấn công vào ngày 11 tháng 9 năm 1942

Thiết kế và chế tạo

Việc chế tạo lớp tàu khu trục Mutsuki được chấp thuận như một phần của chương trình phát triển Hải quân Đế quốc Nhật Bản sau khi Hiệp ước Hải quân Washington có hiệu lực, và chúng được đặt hàng trong năm tài chính 1923.[3] Lớp tàu này là một phiên bản nối tiếp và cải biến dựa trên các lớp tàu khu trục lớp MinekazeKamikaze trước đó, vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.[4] Yayoi được đặt lườn tại xưởng tàu Uraga Dock Company vào ngày 11 tháng 1 năm 1924, được hạ thủy vào ngày 11 tháng 7 năm 1925 và được đưa ra hoạt động vào ngày 28 tháng 8 năm 1926.[5] Thoạt tiên chỉ được gọi đơn giản là "Tàu khu trục số 23" (第二十三号駆逐艦, Dai-23-Gō Kuchikukan), nó được đổi tên thành Yayoi vào ngày 1 tháng 8 năm 1928.

Lịch sử hoạt động

Vào cuối những năm 1930, Yayoi tham gia các hoạt động trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật và trong việc xâm chiếm Đông Dương vào năm 1940.

Vào lúc xảy ra cuộc tấn công Trân Châu Cảng, Yayoi nằm trong thành phần Đội khu trục 30 của Hải đội Khu trục 6 trực thuộc Hạm đội 4 Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và được bố trí từ Truk trong thành phần của lực lượng tấn công đảo Wake.

Sáng sớm ngày 11 tháng 12 năm 1941, trong cuộc đụng độ mà sau này được đặt tên là Trận chiến đảo Wake, lực lượng Mỹ trú đóng trên đảo đã đẩy lui nỗ lực đổ bộ đầu tiên của lực lượng Nhật Bản, vốn được bảo vệ bởi các tàu tuần dương hạng nhẹ Yūbari, TenryūTatsuta cùng Hải đội Khu trục 29 bao gồm các tàu khu trục Yayoi, Mutsuki, Kisaragi, Hayate, OiteAsanagi; hai tàu khu trục cũ thuộc lớp Momi được cải biến thành các tàu tuần tra Số 32Số 33, và hai tàu vận chuyển binh lính chở theo 450 người thuộc Lực lượng Đổ bộ Hải quân Đặc biệt.

Lực lượng Thủy quân Lục chiến phòng thủ đã khai hỏa vào hạm đội đổ bộ bằng sáu khẩu pháo phòng thủ duyên hải 127 mm (5 inch) vốn được lấy từ các thiết giáp hạm cũ bị tháo dỡ, và đã đánh chìm Hayate. Yayoi bị một phát đạn pháo bắn trúng, làm một người thiệt mạng và 17 người khác bị thương; tàu tuần dương Yubari cũng bị bắn trúng 11 lần.[6] Yayoi quay trở lại vào ngày 23 tháng 12 trong đợt tấn công đổ bộ lên đảo Wake lần thứ hai, và đã thành công trong việc chiếm đóng đảo này.[7]

Vào đầu năm 1942, Yayoi hộ tống một đoàn tàu vận tải chuyển binh lính từ Kwajalein đến Truk, rồi sau đó tham gia cuộc chiếm đóng quần đảo Solomon, hỗ trợ cho các cuộc đổ bộ lực lượng Nhật Bản lên Rabaul, Gasmata (New Britain), New Ireland, Lae và Bougainville. Trong Trận chiến biển Coral vào các ngày 7-8 tháng 5 năm 1942, Yayoi được phân về lực lượng đổ bộ trong Chiến dịch Mo nhằm tấn công cảng Moresby. Sau khi chiến dịch này bị hủy bỏ, nó quay về Nhật Bản vào tháng 7 để được tái trang bị tại Xưởng hải quân Sasebo.[8]

Sau khi việc sửa chữa hoàn tất vào giữa tháng 7, Yayoi được phân về Hạm đội 8 Hải quân Đế quốc Nhật Bản và tham gia cuộc bắn phá sân bay Henderson trên đảo Guadalcanal vào ngày 24 tháng 8 năm 1942.[9] Trong Trận chiến Đông Solomon vào ngày 25 tháng 8 năm 1942, Yayoi đã vớt những người còn sống sót từ chiếc tàu chị em Mutsuki đã bị máy bay ném bom B-17 Flying Fortress của Không lực Mỹ đánh chìm.[10]

Vào cuối tháng 8 năm 1942, Yayoi thực hiện một số chuyến "Tốc hành Tokyo" vận chuyển binh lính đến Milne, New Guinea. Từ đầu tháng 9, nó bắt đầu tham gia vào việc triệt thoái lực lượng Nhật Bản khỏi Guadalcanal. Vào ngày 11 tháng 9 năm 1942, sau khi khởi hành từ Rabaul cho một nhiệm vụ triệt thoái khỏi đảo Goodenough, Yayoi bị máy bay ném bom B-17 Flying Fortress và B-25 Mitchell của lực lượng Khối Đồng minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai tấn công. Bị ngập nước không thể kiểm soát, thuyền trưởng của Yayoi, Thiếu tá Hải quân Shizuka Kajimoto đã ra lệnh bỏ tàu, và nó chìm cách 13 km (8 dặm) về phía Tây Bắc đảo Vakuta ở tọa độ 08°45′N 151°25′Đ / 8,75°N 151,417°Đ / -8.750; 151.417. Cuộc tấn công cũng đã làm thiệt mạng Tư lệnh Hải đội Khu trục 30, Đại tá Hải quân Shiro Yasutake. Các tàu khu trục MochizukiIsokaze đã vớt được 83 người sống sót tại đảo Normanby gần đó.

Yayoi được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 20 tháng 10 năm 1942.

Danh sách thuyền trưởng

Tham khảo

Chú thích

Thư mục

  • Brown, David (1990). Warship Losses of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 1-55750-914-X.
  • Devereaux, Colonel James P.S., USMC (1947). The Story of Wake Island. The Battery Press. ISBN 0-89839-264-0.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  • Howarth, Stephen (1983). The Fighting Ships of the Rising Sun: The Drama of the Imperial Japanese Navy, 1895–1945. Atheneum. ISBN 0689114028.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869–1945. US Naval Institute Press. ISBN 087021893X.
  • Morison, Samuel Eliot (1958). The Struggle for Guadalcanal, tháng 8 năm 1942 – tháng 2 năm 1943, vol. 5 of History of United States Naval Operations in World War II. Boston: Little, Brown and Company. ISBN 0-316-58305-7.
  • Watts, Anthony J (1967). Japanese Warships of World War II. Doubleday. ASIN B000KEV3J8.
  • Whitley, M J (2000). Destroyers of World War Two: An International Encyclopedia. London: Arms and Armour Press. ISBN 1854095218.

Liên kết ngoài