Hệ thống vũ khí đánh gần

Hệ thống vũ khí phòng thủ tầm gần và cực gần dùng để đánh chặn các mối đe dọa áp sát

Hệ thống vũ khí đánh gần (tiếng Anh: Close-in weapon systemCIWS /ˈswɪz/ SEE-wiz)[1] là hệ thống vũ khí phòng thủ tầm cực gần (phòng thủ điểm) thường được trang bị trên tàu của lực lượng hải quân, có chức năng phát hiện và tiêu diệt các mối đe dọa như những loại vũ khí có điều khiển (đặc biệt là tên lửa chống hạm), máy bay cánh cố định, máy bay cánh quay, tàu thủy hoặc các phương tiện có lượng choán nước nhỏ khác, các mục tiêu ven biển và thủy lôi đã lọt qua được các hệ thống phòng thủ bên ngoài. Gần như tất cả các lớp tàu chiến hiện đại cỡ lớn đều được trang bị một số hệ thống CIWS.

AK-630 – hệ thống vũ khí đánh gần đầu tiên trên thế giới do Liên Xô phát triển

Có hai loại hệ thống CIWS: hệ thống CIWS dựa trên pháo và hệ thống CIWS dựa trên tên lửa. Các hệ thống CIWS dựa trên pháo thường bao gồm sự kết hợp của radar, máy tính và pháo nòng xoay bắn nhanh đa nòng (hoặc pháo ổ xoay) được đặt trên một tháp pháo xoay, có khả năng nhắm bắn tự động. Các hệ thống CIWS dựa trên tên lửa thường sử dụng tia hồng ngoại, radar thụ động/ESM hoặc dẫn đường đầu cuối bằng radar bán chủ động để dẫn huớng tên lửa nhắm mục tiêu đến máy bay địch hoặc các mối đe dọa khác. Trong một số trường hợp, các hệ thống CIWS cũng được sử dụng trên đất liền để bảo vệ các căn cứ quân sự, có khả năng bảo vệ trước những cuộc tấn công bằng rocket, đạn pháođạn cối.

Hệ thống CIWS dựa trên pháo

Phalanx CIWS và Bofors 40 mm L70 trên khinh hạm Di Hua (PFG-1206) của Hải quân Trung Hoa Dân Quốc

Hệ thống CIWS dựa trên pháo thường bao gồm sự kết hợp của radar, máy tính và pháo nòng xoay bắn nhanh đa nòng (hoặc pháo ổ xoay) được đặt trên một tháp pháo xoay, có khả năng nhắm bắn tự động. Các hệ thống CIWS dựa trên pháo đang hoạt động là:

Hạn chế của hệ thống CIWS dựa trên pháo

  • Tầm bắn hiệu quả ngắn: tầm bắn hiệu quả tối đa của hệ thống pháo chỉ rơi vào khoảng 5.000 m (16.000 ft), các hệ thống pháo có cỡ nòng nhỏ hơn thậm chí còn có tầm bắn ngắn hơn. Trong chiến đấu thực tế, khoảng cách tiêu diệt một tên lửa chống hạm đang bay tới là khoảng 500 m (1.600 ft) hoặc ngắn hơn,[4] vẫn đủ gần để gây ra thiệt hại cho các bộ cảm biến hoặc thiết bị liên lạc của tàu, giết chết hoặc làm bị thương thủy thủ đoàn gần đó. Do đó, một số hệ thống CIWS như Kashtan CIWS và Pantsir-M của Nga được tăng cường bằng cách trang bị thêm các tên lửa đất đối không tầm ngắn trên cùng một tháp pháo để tăng tính linh hoạt trong tác chiến.
  • Xác suất tiêu diệt thấp: ngay cả khi tên lửa đã trúng đạn và bị hư hại, điều này có thể không đủ để tiêu diệt nó hoàn toàn hoặc làm thay đổi hướng đi của nó. Ngay cả trong trường hợp bị trúng đích trực tiếp, phần còn lại của tên lửa hoặc những mảnh vỡ từ vụ nổ khi đánh chặn nếu xảy ra ở cự ly quá gần cũng sẽ tạo ra một cơn mưa kim loại găm vào bề mặt thân tàu cũng như cấu trúc thượng tầng. Với vận tốc cực lớn, những mảnh vỡ này có thể xuyên thủng lớp vỏ tàu, sát thương thủy thủ đoàn ở bên trong hay tệ hơn là phá hủy các thiết bị điện tử.[5]

So sánh giữa một số hệ thống CIWS hiện tại

DARDO[6] Goalkeeper CIWS AK-630[7] Millennium[8] Phalanx CIWS[9] Type 730 CIWS[10]
Hình ảnh
Khối lượng5.500 kg (12.100 lb)9.902 kg (21.830 lb)9.114 kg (20.093 lb)3.300 kg (7.300 lb)6.200 kg (13.700 lb)9.800 kg (21.600 lb)
Vũ khíPháo tự động 2 nòng 40 mm (1,6 in) Bofors 40 mm L/70Pháo nòng xoay 7 nòng 30 mm (1,2 in) GAU-8/A AvengerPháo nòng xoay 6 nòng 30 mm (1,2 in) AO-18Pháo ổ xoay 1 nòng 35 mm (1,4 in) Oerlikon Millennium 35 mm Naval Revolver Gun SystemPháo nòng xoay 6 nòng 20 mm (0,79 in) M61 VulcanPháo nòng xoay 7 nòng 30 mm (1,2 in) H/PJ-11 hoặc H/PJ-12
Tốc độ bắn600 – 900 phát/phút4.200 phát/phút5.000 phát/phút200 – 1.000 phát/phút4.500 phát/phút4.200 phát/phút
Tầm bắn hiệu quả4.000 m (13.000 ft)2.000 m (6.600 ft)4.000 m (13.000 ft)3.500 m (11.500 ft)2.000 m (6.600 ft)2.000 m (6.600 ft)
Cơ số đạn736 viên1.190 viên2.000 viên252 viên1.550 viên640 – 1.000 viên (tùy thuộc vào phiên bản)
Sơ tốc đầu nòng1.000 m/s (3.300 ft/s)1.109 m/s (3.640 ft/s)900 m/s (3.000 ft/s)1.050–1.175 m/s (3.440–3.850 ft/s)1.100 m/s (3.600 ft/s)1.100 m/s (3.600 ft/s)
Góc nâng−13° đến +85°−25° đến +85°−12° đến +88°−15° đến +85°−25° đến +85°−25° đến +85°
Tốc độ nâng60°/giây80°/giây50°/giây70°/giây115°/giây80°/giây
Xoay ngang360°360°360°360°360°360°
Tốc độ xoay90°/giây95°/giây70°/giây120°/giây115°/giây95°/giây
Năm phục vụ?19801976200319802007

Hệ thống CIWS dựa trên tên lửa

Hệ thống CIWS dựa trên tên lửa thường sử dụng tia hồng ngoại, radar thụ động/ESM hoặc dẫn đường đầu cuối bằng radar bán chủ động để dẫn huớng tên lửa. Các hệ thống CIWS dựa trên tên lửa đang hoạt động là:

Hệ thống CIWS trên đất liền

Hệ thống CIWS cũng được sử dụng trên đất liền để bảo vệ các căn cứ quân sự dưới dạng C-RAM.[11] Ở quy mô nhỏ hơn, hệ thống phòng vệ chủ động được sử dụng trên một số xe tăng (để chống lại rocket-propelled grenade (RPG)) và một số loại đang được phát triển. Hệ thống Drozd được triển khai trên xe tăng của Hải quân Đánh bộ Liên Xô vào đầu thập niên 1980, nhưng sau đó đã được thay thế bằng giáp phản ứng nổ. Các hệ thống khác hiện có hoặc đang được phát triển là Arena (Nga), Trophy (Israel), Quick Kill (Hoa Kỳ) và LEDS-150 (Nam Phi – Thụy Điển).

Hệ thống CIWS dựa trên laser

Hệ thống CIWS dựa trên laser đã và đang được nghiên cứu. Tháng 8 năm 2014, một nguyên mẫu đã được triển khai tới Vịnh Ba Tư hoạt động trên tàu USS Ponce.[12] Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Türkiye Bilimsel ve Teknolojik Araştırma Kurumu, TÜBİTAK) là tổ chức thứ hai sau Hoa Kỳ đã phát triển và thử nghiệm nguyên mẫu hệ thống High Power Laser CIWS, dự định sẽ sử dụng trên tàu khu trục lớp TF2000 và các hệ thống hàng không của Thổ Nhĩ Kỳ.[13][14][15]

Tham khảo