Bước tới nội dung

Liên hoan phim Tribeca

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Liên hoan phim Tribeca
Logo
David Paterson mở màn
Liên hoan phim Tribeca 2008
Địa điểmThành phố New York, New York, Hoa Kỳ
Ngôn ngữQuốc tế
Trang web chính thức
 Cổng thông tin Điện ảnh

Liên hoan phim Tribeca thành lập vào năm 2002 bởi Jane Rosenthal, Robert De Niro và Craig Hatkoff, được cho là phản ứng trước sự kiện 11 tháng 9Trung tâm Thương mại Thế giới và mất mát của Tribeca,[1] dù có nhiều báo cáo cho rằng Liên hoan thành lập ngầm trước khi diễn ra sự kiện 11/9.[2] Nhiệm vụ của liên hoan phim là "giúp cộng đồng điện ảnh quốc tế và công chúng nói chung trải nghiệm sức mạnh của điện ảnh bằng việc tái khẳng định trải nghiệm tại liên hoan phim." Liên hoan phim Tribeca thành lập để ăn mừng thành phố New York như là trung tâm làm phim lớn và đóng góp trong việc cải thiện khu vực Manhattan.

Vào năm 2006 và 2007, Liên hoan phim nhận 8.600 đệ trình phim và tổ chức 1.500 buổi chiếu.[3] Chương trình trong Liên hoan phim bao gồm hàng loạt thể loại phim độc lập như phim tài liệu, phim truyện, phim ngắn và phim dành cho gia đình. Liên hoan phim còn có hội đồng giám khảo trong thế giới giải trí, với âm nhạc do ASCAP cung cấp. Liên hoan phim hiện nay thu hút ước tính 3 triệu người nổi tiếng trong nhiều thể loại nghệ thuật như điện ảnh và âm nhạc–và đem về lợi nhuận hơn 600 triệu đô-la Mỹ mỗi năm.[4]

Lịch sửsửa mã nguồn

Các nhà thành lập Liên hoan phim Jane Rosenthal và Robert De Niro.
Bên ngoài Tribeca Cinemas
Đoàn làm phim trên sân khấu sau khi công chiếu một bộ phim tài liệu tại Liên hoan phim Tribeca 2015.

Liên hoan đầu tiên khai mạc sau 120 ngày lên kế hoạch với sự giúp đỡ của hơn 1.300 tình nguyện viên. Liên hoan thu hút 150.000 người[3] và nhiều nhà làm phim mới nổi. Liên hoan phim gồm nhiều cuộc thi điện ảnh; loạt phim Restored Classics; 13 buổi tọa đàm lớn; Liên hoan gia đình cả ngày; và công chiếu Star Wars: Episode II – Attack of the Clones,[5] About A Boy,[6] phiên bản làm lại của Insomnia, Divine Secrets of the Ya-Ya Sisterhood, The League of Extraordinary Gentlemen cũng như lần công chiếu tại Hoa Kỳ Spider-Man 3The Avengers.[cần dẫn nguồn]

Liên hoan năm 2003 thu hút hơn 300.000 khán giả.[3] Tại đây cũng mở rộng loạt phim độc lập, tài liệu và phim ngắn từ khắp thế giới, buổi hòa nhạc và tấu hài, hoạt động thể thao và trình chiếu phim ngoài trời cùng Hudson River.[cần dẫn nguồn] Cuối năm 2003, De Niro mua lại rạp hát tại 54 Varick Street để trình chiếu nhiều bộ phim độc lập hàng đêm,[7] đổi tên thành Tribeca Cinema, trở thành một trong những nhà hát chính của Liên hoan phim. Năm 2009, Rosenthal, Hatkoff và De Niro nằm ở vị trí thứ 14 trong danh sách 25 nhà tài phiệt dẫn đầu thế giới của Barron's nhờ vai trò tập hợp kinh tế của TriBeCa sau sự kiện ngày 11 tháng 9.[8][9]

Giải thưởngsửa mã nguồn

Phim truyệnsửa mã nguồn

Phim hay nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Virgin Mountain, đạo diễn Dagur Kári
  • 2014 – Zero Motivation, đạo diễn Talya Lavie[10]
  • 2013 – The Rocket,[11] đạo diễn Kim Mordaunt
  • 2012 – War Witch, đạo diễn Kim Nguyen
  • 2011 – She Monkeys, đạo diễn Lisa Aschan
  • 2010 – When We Leave, đạo diễn Feo Aladag
  • 2009 – About Elly, đạo diễn Asghar Farhadi
  • 2008 – Let the Right One In, đạo diễn Tomas Alfredson
  • 2007 – My Father My Lord, đạo diễn David Volach
  • 2006 – Iluminados por el fuego, đạo diễn Tristán Bauer
  • 2005 – Stolen Life, đạo diễn Li Shaohong
  • 2004 – Green Hat, đạo diễn Liu Fendou
  • 2003 – Blind Shaft, đạo diễn Li Yang
  • 2002 – Roger Dodger, đạo diễn Dylan Kidd

Nhà làm phim mới xuất sắc nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Zachary Treitz trong Men Go to Battle
  • 2014 – Josef Wladyka trong Manos Sucias[10]
  • 2013 – Emanuel Hoss-Desmarais trong Whitewash
  • 2012 – Lucy Mulloy, Una Noche
  • 2011 – Park Jung-bum trong The Journals of Musan
  • 2010 – Kim Chapiron trong Dog Pound
  • 2009 – Rune Denstad Langlo trong North
  • 2008 – Huseyin Karabey trong My Marlon and Brando
  • 2007 – Enrique Begne trong Two Embraces
  • 2006 – Marwan Hamed trong The Yacoubian Building
  • 2005 – Alicia Scherson trong Play
  • 2004 – Liu Fendou trong Green Hat
  • 2003 – Valeria Bruni Tedeschi trong It's Easier for a Camel...
  • 2002 – Eric Eason trong Manito

Nam diễn viên xuất sắc nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Gunnar Jónsson trong Virgin Mountain
  • 2014 – Paul Schneider trong Goodbye to All That[10]
  • 2013 – Sitthiphon Disamoe, The Rocket
  • 2012 – Dariel Arrechada và Javier Nuñez Florian, Una Noche
  • 2011 – Ramadhan "Shami" Bizimana trong Grey Matter
  • 2010 – Eric Elmosnino trong Gainsbourg (Vie héroïque)
  • 2009 – Ciarán Hinds trong The Eclipse
  • 2008 – Thomas Turgoose và Piotr Jagiello trong Somers Town
  • 2007 – Lofti Ebdelli trong Making Of. (Akher film)
  • 2006 – Jürgen Vogel trong Der Freie Wille
  • 2005 – Cees Geel trong Simon
  • 2004 – Ian Hart trong Blind Flight
  • 2003 – Igor Bareš trong Výlet và Ohad Knoller trong Yossi & Jagger

Nữ diễn viên xuất sắc nhấtsửa mã nguồn

Phim tài liệu hay nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Democrats, đạo diễn Camilla Nielsson
  • 2014 – Point and Shoot, đạo diễn Marshall Curry[10]
  • 2013 – The Kill Team, đạo diễn Dan Krauss
  • 2012 – The World Before Her, đạo diễn Nisha Pahuja
  • 2011 – Bombay Beach, đạo diễn Alma Har'el
  • 2010 – Monica & David, đạo diễn Alexandra Codina
  • 2009 – Racing Dreams, đạo diễn Marshall Curry
  • 2008 – Pray the Devil Back to Hell, đạo diễn Gini Reticker
  • 2007 – Taxi to the Dark Side, đạo diễn Alex Gibney
  • 2006 – The War Tapes, đạo diễn Deborah Scranton
  • 2005 – El Perro Negro: Stories from the Spanish Civil War, đạo diễn Péter Forgács
  • 2004 – Kill Your Idols, đạo diễn Scott Crary
  • 2003 – A Normal Life, đạo diễn Elizabeth Chai Vasarhelyi và Hugo Berkeley
  • 2002 – Chiefs, đạo diễn Daniel Junge

Nhà làm phim tài liệu mới xuất sắc nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Ewan McNicol và Anna Sandilands trong Uncertain
  • 2014 – Alan Hicks trong Keep On Keepin' On[10]
  • 2013 – Sean Dunne trong Oxyana
  • 2011 – Pablo Croce trong Like Water
  • 2010 – Clio Barnard trong The Arbor
  • 2009 – Ian Olds trong Fixer: The Taking of Ajmal Naqshbandi
  • 2008 – Carlos Carcass trong Old Man Bebo
  • 2007 – Vardan Hovhannisyan trong A Story of People in War and Peace
  • 2006 – Pelin Esmer trong The Play
  • 2005 – Jeff Zimbalist và Matt Mochary trong Favela Rising
  • 2004 – Paulo Sacramento trong The Prisoner of the Iron Bars: Self-Portraits

Quay phim xuất sắc nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Magnus Jønck trong Bridgend
  • 2014 – Damian García trong Gueros
  • 2013 – Marius Matzow Gulbrandsen trong Before Snowfall
  • 2012 – Trevor Forrest và Shlomo Godder trong Una Noche
  • 2011 – Lisa Tillinger trong Artificial Paradises

Kịch bản hay nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Dagur Kári trong Virgin Mountain
  • 2014 – Guillaume Nicloux trong The Kidnapping of Michel Houellebecq
  • 2013 – Carl Joos và Felix Van Groeningen trong The Broken Circle Breakdown
  • 2012 – Daniel Burman và Sergio Dubcovsky trong La suerte en tus manos
  • 2011 – Jannicke Systad Jacobsen trong Turn Me On, Dammit!

Tường thuật hay nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Oliver Bugge Coutté trong Bridgend
  • 2014 – Keith Miller trong Five Star

Phim ngắnsửa mã nguồn

Phim ngắn hay nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Listen, đạo diễn Hamy Ramezan và Rungano Nyoni
  • 2014 – The Phone Call, đạo diễn Mat Kirkby[10]
  • 2013 – The Nightshift Belongs to the Stars, đạo diễn Edoardo Ponti
  • 2010 – Father Christmas Doesn't Come Here, đạo diễn Bekhi Sibiya
  • 2009 – The North Road, đạo diễn Carlos Chahine
  • 2008 – New Boy, đạo diễn Steph Green
  • 2007 – The Last Dog in Rwanda, đạo diễn Jens Assur
  • 2006 – The Shovel, đạo diễn Nick Childs
  • 2005 – Cashback, đạo diễn Sean Ellis
  • 2004 – Shock Act, đạo diễn Seth Grossman
  • 2002 – Bamboleho, đạo diễn Luis Prieto

Phim tài liệu ngắn hay nhấtsửa mã nguồn

  • 2015 – Body Team 12, đạo diễn David Darg
  • 2014 – One Year Lease, đạo diễn Brian Bolster[10]
  • 2010 – White Lines and the Fever: The Death of DJ Junebug, đạo diễn Travis Senger
  • 2009 – Home, đạo diễn Mathew Faust
  • 2008 – Mandatory Service, đạo diễn Jessica Habie
  • 2007 – A Son’s Sacrifice, đạo diễn Yoni Brook
  • 2006 – Native New Yorker, đạo diễn Steve Bilich
  • 2005 – The Life of Kevin Carter, đạo diễn Dan Krauss
  • 2004 – Sister Rose's Passion, đạo diễn Oren Jacoby
  • 2003 – Milton Rogovin: The Forgotten Ones, đạo diễn Harvey Wang
  • 2002 – All Water Has a Perfect Memory, đạo diễn Natalia Almada

Tham khảosửa mã nguồn

Liên kết ngoàisửa mã nguồn

🔥 Top keywords: Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTCTrang ChínhGiỗ Tổ Hùng VươngTrương Mỹ LanĐặc biệt:Tìm kiếmHùng VươngVương Đình HuệUEFA Champions LeagueKuwaitChiến dịch Điện Biên PhủFacebookĐài Truyền hình Việt NamTrần Cẩm TúĐội tuyển bóng đá quốc gia KuwaitGoogle DịchViệt NamCúp bóng đá U-23 châu ÁCúp bóng đá U-23 châu Á 2024Real Madrid CFBảng xếp hạng bóng đá nam FIFACleopatra VIITô LâmTim CookNguyễn Phú TrọngHồ Chí MinhHai Bà TrưngManchester City F.C.VnExpressChủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt NamNguyễn Ngọc ThắngĐền HùngCúp bóng đá trong nhà châu Á 2024Võ Văn ThưởngOne PieceLịch sử Việt NamCuộc đua xe đạp toàn quốc tranh Cúp truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh 2024Phạm Minh ChínhTikTokĐinh Tiên Hoàng