Canis lupus dingo

Canis lupus dingo là một bậc phân loại bao gồm chó dingo có nguồn gốc từ Úc và loài chó hiếm - chó biết hát New Guinea có nguồn gốc từ Cao nguyên New Guinea. Bậc phân loại này cũng bao gồm một số loại chó đã lâm vào tình trạng tuyệt chủng từng được tìm thấy sinh sống ven biển Papua New Guinea và Java thuộc Quần đảo Indonesia. Canis lupus dingo là một phân loài của Canis lupus. Bằng chứng di truyền chỉ ra rằng nhánh chó dingo có nguồn gốc từ các giống chó nhà Đông Á và được đưa từ Quần đảo Mã Lai vào Úc.[18][19]

Canis lupus dingo
Thời điểm hóa thạch: Holocene (3,450 năm TCN – nay)[1][2]
Australian dingo
Australian dingo
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Carnivora
Họ (familia)Canidae
Chi (genus)Canis
Loài (species)C. lupus
Phân loài (subspecies)C. l. dingo
Danh pháp ba phần
Canis lupus dingo
Meyer, 1793[4]
Danh pháp đồng nghĩa[17]
  • Canis antarticus Kerr, 1792 [suppressed ICZN][5]
  • Canis familiaris Linnaeus, 1758[2][6][7]
  • Canis familiaris australasiae Desmarest, 1820[8]
  • Canis familiaris dingo Meyer, 1793[9]
  • Canis australiae Gray, 1826[10]
  • Canis dingo Meyer, 1793[4]
  • Canis dingoides Matschie, 1915[11]
  • Canis macdonnellensis Matschie, 1915[12]
  • Canis familiaris novaehollandiae Voigt, 1831[13]
  • Canis papuensis Ramsay, 1879
  • Canis tenggerana Kohlbrugge, 1896[14]
  • Canis hallstromi Troughton, 1957[15]
  • Canis harappensis Prashad, 1936[16]

Mối quan hệ với chó sói

Một số giống chó, bao gồm hai giống chó dingoBasenji, gần như có sự khác biệt về mặt di truyền so với những loài chó có nguồn gốc từ chó sói.[20] Tuy nhiên sự khác biệt này có thể có nguyên nhân từ việc các loại chó này bị cô lập về mặt địa lý và sự pha trộn nguồn gen ở những loài chó khác sinh sống trong khu vực.[21] Dòng dõi tổ tiên của chúng rẽ hướng từ những loài chó khác cách đây khoảng 8.500 năm (nếu tính theo một phương pháp ước tính khác, con số có thể lên đến 23.000 năm). Dòng gen từ loài sói Tây Tạng phân ly di truyền và góp 2% trong bộ gen của chó dingo[20] và điều này có khả năng đại diện cho vấn đề phối trộn gen thời kỳ cổ xưa ở khu vực phía đông lục địa Á-Âu.[22][23]

Tham khảo