Chúa Nguyễn
Chúa Nguyễn (chữ Nôm: 主阮; chữ Hán: 阮王 / Nguyễn vương) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo Ngang hiện nay) trở vào miền Nam của Việt Nam, đối lập với xứ Đàng Ngoài của các Chúa Trịnh trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh của lịch sử Việt Nam. Các Chúa Nguyễn bắt đầu từ đầu giai đoạn Lê Trung hưng của Nhà Hậu Lê, hay giữa thế kỷ XVI, cho đến khi bị Nhà Tây Sơn tiêu diệt vào năm 1777, tuy nhiên Nguyễn Phúc Ánh một tàn dư của Chúa Nguyễn đã xưng vương và đến năm 1802 thì tiêu diệt Tây Sơn và lập ra triều đại mới thông qua việc xưng đế. Các Chúa Nguyễn chính là tổ tiên của các Hoàng đế Nhà Nguyễn (1802-1945).
Chúa Nguyễn | |||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||
1558–1777 1780-1802 | |||||||||||
Ấn khắc chữ "Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo" | |||||||||||
Thế cục Đại Việt thời Trịnh-Nguyễn phân tranh năm 1650 | |||||||||||
Tổng quan | |||||||||||
Vị thế | Công quốc | ||||||||||
Thủ đô | Ái Tử-Trà Bát (1558-1626) Phước Yên-Bác Vọng (1626-1636, 1712-1738) Kim Long-Phú Xuân (1636-1712, 1738-1775) Hội An (1775-1777) Gia Định (1777, 1780-1783, 1788-1802) | ||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Việt Tiếng Hán | ||||||||||
Tôn giáo chính | Tam giáo Ki-tô giáo | ||||||||||
Chính trị | |||||||||||
Chính phủ | Quân chủ chuyên chế | ||||||||||
Lịch sử | |||||||||||
Thời kỳ | Nhà Lê Trung hưng Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn | ||||||||||
• Thành lập | 1558 | ||||||||||
• Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa | 1558 | ||||||||||
• Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng vương | 1744 | ||||||||||
• Khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ | 1771 | ||||||||||
• Nguyễn Phúc Dương bị quân Tây Sơn giết | 1777 | ||||||||||
• Giải thể | 1777 1780-1802 | ||||||||||
| |||||||||||
Hiện nay là một phần của | Việt Nam Campuchia |
Năm 1527, Mạc Đăng Dung soán ngôi Nhà Lê và lập ra Nhà Mạc. Nguyễn Kim (1468–1545), vốn là một tướng giỏi của Nhà Hậu Lê, nhờ có công giúp vua Lê chống lại Nhà Mạc nên được phong chức Thái sư Hưng Quốc công (sau này khi Nhà Nguyễn thành lập đã truy tôn ông là Triệu tổ Tĩnh hoàng đế). Nguyễn Kim có ba người con. Con gái đầu tên Ngọc Bảo, lấy Trịnh Kiểm, người sau này trở thành người mở đầu cho sự nghiệp của các Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài; hai người con trai kế của Nguyễn Kim cũng là tướng giỏi và được phong chức Quận công. Sau khi người con trai lớn là Nguyễn Uông bị anh rể là Trịnh Kiểm giết, người con trai còn lại là Nguyễn Hoàng đã xin vua Lê cho vào cai trị vùng đất Thuận Hóa để rời xa sự kiểm soát của anh rể mà nhằm mưu đồ tạo dựng 1 cơ nghiệp riêng cho dòng họ Nguyễn, cụ thể từ năm 1600, việc này dẫn đến sự chia cắt với Chúa Trịnh ở miền Bắc và hai miền chỉ được thống nhất khi cả hai thế lực bị Nhà Tây Sơn tiêu diệt năm 1787. Năm 1744, Chúa Nguyễn Phúc Khoát tự xưng tước vị "vương" để chứng tỏ quyền lực ngang hàng với Chúa Trịnh và chỉ đứng dưới Hoàng đế Đại Việt (tức vua Nhà Lê Trung hưng).
Các Chúa Nguyễn về danh nghĩa là quan lại của Nhà Lê Trung hưng. Họ vẫn nhận sắc phong và dùng niên hiệu của vua Lê, vẫn tuyên bố mình là bề tôi trung thành của Nhà Lê, có nhiệm vụ giúp vua Lê cai quản vùng lãnh thổ phía Nam của nước Đại Việt, dù trên thực tế họ cai trị lãnh thổ Đàng Trong một cách tương đối độc lập, ít khi nhận mệnh lệnh từ vua Lê. Tổng cộng có 9 Chúa Nguyễn cai quản xứ Đàng Trong trong hơn 2 thế kỷ cho tới khi bị lật đổ vào năm 1777. Tình trạng chia cắt Việt Nam thành Đàng Trong (của Chúa Nguyễn) với Đàng Ngoài (của các Chúa Trịnh) kéo dài suốt khoảng thời gian đó. Đến khoảng cuối thế kỷ XVIII, Chúa Nguyễn Phúc Khoát bỏ bê chính sự, triều chính rối ren khiến lòng dân chán ghét, việc này đã tạo ra điều kiện cho nhà Tây Sơn nổi dậy, đánh đổ cả hai tập đoàn Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, kết thúc tình trạng chia cắt ở phía Bắc và Nam của nước Việt Nam.
Nguồn gốc
Nguyễn Kim, cha của Chúa Nguyễn đầu tiên Nguyễn Hoàng, được một số sách chép là con của Nguyễn Hoằng Dụ, và là cháu của Nguyễn Văn Lang. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Đinh Công Vĩ thì cha của Nguyễn Kim là Nguyễn Văn Lưu, em họ của Trường Lạc hoàng thái hậu Nguyễn Thị Hằng và là anh họ của Nguyễn Văn Lang. Tức Nguyễn Kim chỉ là cháu họ của Nguyễn Đức Trung và là anh họ của Nguyễn Hoằng Dụ.
Theo tác giả Đinh Công Vĩ, khảo cứu 7 nguồn gia phả họ Nguyễn khác nhau tại sách Nhìn lại lịch sử, các phả họ Nguyễn nói chung có sự khác nhau về vấn đề khẳng định hoặc không khẳng định việc đưa Nguyễn Trãi vào, cho rằng Ông là cha của Nguyễn Công Duẩn; còn thông tin từ đời Nguyễn Đức Trung trở đi, các gia phả đều thống nhất rằng: Nguyễn Hoằng Dụ chỉ là em họ của Nguyễn Kim. Theo đó, Nguyễn Công Duẩn sinh bảy con trai, sau phân thành 7 chi. Chỉ xét 4 chi:
- Chi đầu là Nguyễn Đức Trung, sau được phong Thái úy Trình quốc công. Ông là tổ họ Nguyễn Hữu, sinh được 14 con, trong đó con gái thứ 2 là Nguyễn Thị Hằng. Thái phó Tĩnh quốc công Nguyễn Hữu Dật là hậu duệ của ông.
- Chi 4 là Nguyễn Như Trác, sau được phong Thái bảo Phó quốc công. Ông là tổ của dòng hoàng tộc Nguyễn Phúc, sinh Nguyễn Văn Lưu. Nguyễn Văn Lưu sinh ra Nguyễn Kim.
- Chi 5 là Nguyễn Văn Lỗ, sau được phong Thái úy Sảng quốc công. Ông là tổ họ Nguyễn Gia (Liễu Ngạn, Bắc Ninh), sinh ra Nguyễn Văn Lang, Nguyễn Văn Lang sinh Nguyễn Hoằng Dụ. Ôn Như hầu Nguyễn Gia Thiều là hậu duệ của ông.
- Chi 7 là Nguyễn Bá Cao, sau được phong Thái phó Phổ quốc công. Ông là tổ họ Nguyễn Cửu, sinh được 2 trai. Phó tướng Nguyễn Cửu Kiều là hậu duệ của ông.
Còn một minh chứng nữa mà tác giả Đinh Công Vĩ nêu ra: Ở Triệu miếu (Huế) và Nguyên miếu (Gia Miêu ngoại trang) chỉ thờ Nguyễn Văn Lưu là cha đẻ thực của Nguyễn Kim mà không thờ Nguyễn Hoằng Dụ, cha Nguyễn Kim như sử chép. Mặt khác, mộ cha Hoằng Dụ là Nguyễn Văn Lang ở làng Tam Quy xã Hà Tân, Hà Trung, Thanh Hoá chỉ do con cháu chi 5, nay đã đổi ra họ Đỗ Nguyễn trông nom, họ Nguyễn Phúc không có nhiệm vụ trông nom mộ Nguyễn Văn Lang. Trong các nguồn gia phả, có cuốn do Quỳnh Sơn hầu Nguyễn Lữ là em ruột Nguyễn Văn Lang soạn năm 1515, khi đó những người đang được đề cập còn sống[1].
Các hoạt động đối nội
Việc quan chế
Vào thời Chúa Tiên Nguyễn Hoàng khi mà họ Nguyễn vẫn chưa ra mặt chống đối với họ Trịnh thì quan lại vẫn do chính quyền Trung ương ngoài Bắc bổ nhiệm. Tới đời Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, với việc tuyển dụng nhiều nhân tài (đơn cử như Đào Duy Từ), chấm dứt việc nộp thuế cho nhà Lê-Trịnh và đem quân chống giữ họ Trịnh ở Bắc Bố Chính, các Chúa Nguyễn đã thực sự bắt đầu xây dựng một chính quyền riêng ở Đàng Trong, việc bổ nhiệm quan lại từ đó đều do các Chúa tự đặt.
Ở Chính dinh (Thủ phủ của Chúa Nguyễn) đặt ra tam ty để giúp chúa chăm lo việc chính sự, tam ty đó là:
- Xá ti: trông coi việc từ tụng, văn án. Đứng đầu là quan Đô tri và Ký lục.
- Tướng thần lại ti: trông coi việc thu thuế, phân phát lương thực cho quân đội. Đứng đầu là quan Cai bạ.
- Lệnh sứ ti: trông coi việc tế tự, lễ Tết và phát lương cho quân lính ở Chính dinh, đứng đầu là quan Nha úy.
Dưới mỗi ty lại có quan Cai hợp, Thủ hợp và các Lại ty giúp điều hành mọi việc.
Ngoài Chính dinh thì tùy theo tầm quan trọng của các dinh mà phân bổ số lượng quan viên, ví dụ có những dinh chỉ đặt một ty là Lệnh sứ ti nhưng trông coi công việc của cả hai ty còn lại.
Các cấp hành chính ở dưới dinh bao gồm: phủ, huyện được trông coi bởi Tri phủ, Tri huyện và các quan dưới quyền như Đề lại, Thông lại, Huấn đạo, Lễ sinh...
Đến thời Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan đặt thêm các chức Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu, gọi là tứ trụ triều đình để giúp chúa trông coi việc nước.
Tổ chức quân đội
Do nhu cầu sống còn về việc phải chống trả các cuộc tấn công từ Đàng Ngoài của Chúa Trịnh với lực lượng đông đảo hơn, Chúa Nguyễn quan tâm xây dựng quân đội mạnh ngay từ thời gian đầu cát cứ tại đây.
Việc quân dịch được chia làm hai loại: những trai tráng khỏe mạnh được sung thẳng vào quân ngũ, số còn lại là quân trừ bị được gọi dần dần tùy từng đợt tuyển quân. Quân lính được chia làm 5 cơ: Trung, Tả, Hữu, Hậu và Tiền. Quân số Đàng Trong vào khoảng độ 30.000 người, và theo sự khảo cứu của các sử gia Pháp thì quân số của các đơn vị trong quân đội Đàng Trong thường không ổn định, tăng giảm không nhất quán, khi có chiến trận thì tăng quân, khi hòa bình thì lại giảm bớt.
Quân đội Chúa Nguyễn được chia làm ba loại: quân túc vệ ở kinh thành Phú Xuân, quân chính quy thường trực tại các dinh và thổ binh tại các địa phương.
- Quân túc vệ hay thân quân gồm có 2 vệ: Tả tiệp và Hữu tiệp, mỗi vệ 50 người, có nhiệm vụ bảo vệ kinh thành và hộ vệ Chúa Nguyễn. Năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát xưng vương mới đổi gọi là Vũ lâm quân. Thành phần quân túc vệ là những người thân cận, đáng tin cậy như con cháu các võ quan, hoặc người cùng quê huyện Tống Sơn với chúa Nguyễn[2][3].
- Quân chính quy đóng tại các dinh, được phiên chế theo thứ tự: dinh, cơ, đội và thuyền. Đứng đầu dinh là Chưởng dinh, đứng đầu cơ là Chưởng cơ và Cai cơ; đứng đầu các đội có Cai đội và đội trưởng. Những chức vụ quan trọng ở cấp dinh trở xuống được tuyển chọn từ người trong họ hàng có bản quán ở Thanh Hóa, người nơi khác không được làm. Tuy nhiên, biên chế quân Nguyễn không thống nhất. Dưới Dinh là Cơ, dưới Cơ có thể là nhiều thuyền hoặc nhiều đội và số lượng cũng không thống nhất. Số lính ở mỗi cơ cũng không đều nhau, có thể là 260 người, 300 người, 500 người thậm chí 2700 người[4].
- Thổ binh, còn gọi là Tạm binh, là lực lượng quân đội địa phương, số lượng rất lớn. Do chính binh phải bảo vệ Phú Xuân để phòng quân Trịnh, thổ binh thường có trách nhiệm canh giữ những vùng đất mới và trấn áp những sự chống đối của Chiêm Thành và Chân Lạp. Lực lượng này không được trả lương như quân túc vệ hay chính binh mà chỉ được miễn sưu thuế vì hoạt động chủ yếu là tuần tra, canh gác, lao động...
Về binh chủng, quân Đàng Trong cũng khá giống với Đàng Ngoài, gồm có bộ binh, thủy binh, pháo binh và thêm tượng binh. Thủy binh Đàng Trong khá mạnh, mỗi thuyền có khoảng 30 chèo, có 3 khẩu đại bác ở mũi và 2 khẩu ở đuôi. Trong cuộc chiến với Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn đã tranh thủ mua vũ khí phương Tây và học cách đóng tàu thuyền, đúc súng của họ. Tại Phú Xuân có xưởng đúc súng do người Bồ Đào Nha giúp, được mở năm 1631 và hiện nay vẫn còn di tích ở Huế[5].
Năm Tân Mùi (1631), Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa và sở đúc súng đại bác (một người Pháp lai Bồ Đào Nha tên là Jean de la Croix đã giúp Chúa Sãi xây dựng cơ sở này, gọi là phường Đúc, ở Thuận Hóa ngày nay).
Trong 200 năm, quân đội Đàng Trong đã lập được 2 thành tích quan trọng:
- Trong cuộc chiến với Chúa Trịnh: Lực lượng này đã tiến chiếm giữ 7 huyện ở Nghệ An trong 5 năm (1655–1660) và đánh lui 6 đợt tấn công của quân Trịnh trong cuộc xung đột 45 năm; dù lực lượng quân Trịnh thường ở thế đông hơn trong những lần tham chiến.
- Cùng trong khoảng thời gian chiến tranh với quân Trịnh, quân Chúa Nguyễn vẫn nhiều lần đánh bại lực lượng tàn dư của nước Chiêm Thành, mở rộng vùng cai trị của Chúa Nguyễn không chỉ bó hẹp ở Thuận Hóa – Quảng Nam mà đến hết địa giới Nam Trung Bộ. Đến năm 1697, Chúa Nguyễn cơ bản sáp nhập đất Chiêm vào Đại Việt, Chiêm Thành không còn tồn tại với tư cách 1 quốc gia như trước mà trở thành một phần lãnh thổ của chính quyền Đàng Trong[6]. Đây là một mốc quan trọng trong lịch sử Việt Nam.
Tuy nhiên, đến cuối thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát, do chúa bỏ bê công việc, chính sự rối ren khiến lòng dân chán nản. Quân đội của Chúa Nguyễn cũng theo đó mà sút kém theo, cuối cùng bị nhà Tây Sơn đánh bại.
Việc thi cử
Việc tuyển dụng quan lại ở kinh đô và các dinh được thực hiện bằng khoa cử, ngoại trừ một số trường hợp đã từ Bắc vào Nam theo Chúa Nguyễn Hoàng vào năm 1558 và năm 1600. Từ năm 1632, Chúa Sãi bắt đầu cho mở khoa thi để lấy người vào các chức vụ Tri phủ, Huấn đạo, Lễ sinh. Năm Đinh Hợi (1647), Chúa Nguyễn Phúc Tần cho lập ra hai bậc thi: thi Chính đồ và thi Hoa văn. Chương trình thi Chính đồ gồm có ba kỳ: kỳ thứ nhất thi tứ lục, kỳ thứ hai thi thơ phú và kỳ thứ ba thi văn sách. Hội đồng giám khảo có quan Tri phủ, Tri huyện làm sơ khảo, quan Cai bạ, Ký lục, Vệ úy làm Giám khảo. Khóa sinh trúng tuyển được chia theo ba hạng: đứng nhất là Giám sinh, được bổ nhiệm làm Tri phủ, Tri huyện, đứng thứ nhì là Sinh đồ được bổ nhiệm làm Huấn đạo, và đứng hạng ba cũng được gọi là Sinh đồ nhưng được bổ nhiệm làm Lễ sinh hoặc Nhiêu học. Kỳ Thi Hoa văn cũng trải qua ba ngày, mỗi ngày khóa sinh phải làm một bài thơ, những khóa sinh thi đậu được bổ nhiệm làm việc trong Tam ty (phủ chúa).
Năm 1675, đời Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, Chúa cho mở thêm một kỳ vấn đáp thay vì chỉ có thi viết như truyền thống. Trong kỳ thi vấn đáp này, các khóa sinh được hỏi về nhiệm vụ của quân nhân và công dân đối với thời cuộc và chính quyền cùng với quan niệm của họ đối với vua Lê và Chúa Trịnh.
Bên cạnh những kì thi vấn đáp như trên, những khoa thi viết truyền thống được tổ chức 6 năm một lần tại các tỉnh vào dịp đầu Xuân. Những thí sinh thi đỗ được miễn các loại tạp dịch cho tới kỳ đại khảo sau. Qua được kỳ thi ở các tỉnh, khóa sinh được dự kỳ thi bậc cao hơn tổ chức vào mùa Thu.
Năm Ất Hợi (1695), Chúa Nguyễn Phúc Chu mở khoa thi tại phủ chúa gọi là thi Văn chức và thi Tam ty.
Năm Canh Thân (1740), thời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, quyền lợi của khóa sinh được quy định như sau: những người đậu kỳ đệ nhất gọi là Nhiêu học được miễn sai dịch 5 năm, đậu kỳ đệ nhị và đệ tam được miễn sai dịch vĩnh viễn, ai đậu kỳ đệ tứ thì được gọi là Hương cống và được bổ nhiệm làm Tri phủ, Tri huyện.
Xem xét chương trình thi cử của Đàng Trong thời bấy giờ, ta nhận thấy việc thi cử khá sơ lược nếu so sánh với các triều đại trước đó (triều Trần và Hậu Lê). Điều này xuất phát từ việc chính quyền của các Chúa Nguyễn mới chỉ tập trung lo việc chiến tranh và quân bị nhằm so kè với Đàng Ngoài, nhân dân cũng bị ảnh hưởng và lôi cuốn vào vòng chiến sự dai dẳng, dẫn tới việc hơn một thế kỷ trôi qua mà việc văn học, khoa cử không đạt được nhiều tiến bộ.
Về tôn giáo
Việt Nam nói chung và Đàng Trong nói riêng đến thế kỷ XVII tồn tại 3 tôn giáo chính: Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo, trong đó Nho giáo và Phật giáo giữ vai trò quan trọng nhất.
Xét về Nho giáo, nó có vị trí quan trọng đối với các triều đại phong kiến. Nho giáo với thuyết hình nhi thượng học (quan niệm về Thiên đạo, Nhân đạo và Luận lý học) và hình nhi hạ học (Quân tử, Tiểu nhân, Hiếu, Lễ Nhạc, Chính trị, Học vấn) được các nhà Nho triển khai qua nhiều thời luôn dùng "văn chương để lấy kẻ sĩ", triều đình tổ chức lối học khoa cử theo Nho giáo.
Bên cạnh đó, Phật giáo xứ Đàng Trong cũng rất phát triển. Chùa chiền được các Chúa Nguyễn chăm lo xây dựng, trùng tu. Nhiều Tăng sĩ Trung Hoa đến xứ Đàng Trong truyền đạo thành công như Viên Cảnh, Viên Khoan, Hưng Liên, Giác Phong, Pháp Bảo, Tử Dung... Các thiền phái phát triển mạnh lúc bấy giờ là phái thiền Trúc Lâm được phục hưng trở lại với sự có mặt của thiền sư người Việt là Hương Hải, phái thiền này sau được Hương Hải truyền ra Đàng Ngoài và rất thịnh; Hai thiền phái từ Trung Hoa là phái thiền Lâm Tế do Tổ sư Nguyên Thiều và phái thiền Tào Động do Hòa thượng Thạch Liêm (Thích Đại Sán) truyền sang; Đời Chúa Nguyễn Phúc Chu trở đi phát triển chi phái thiền Liễu Quán của Tổ sư Liễu Quán. Trong đó, Nguyên Thiều là người có công truyền đạo tại xứ Đàng Trong, thiền phái Lâm Tế đã ảnh hưởng lớn đến triều đình và dân chúng, Ngài được chúa Nguyễn Phúc Chu ban hiệu Hạnh Đoan thiền sư và khen ngợi rằng: Cao vút trí tuệ. Phạm hạnh vun trồng. Giới đao một lưỡi, Hoằng pháp lợi người. Quán thân vốn không. Mây từ che khắp trời tuệ chiếu cùng.
Chính vì lẽ ấy mà trong hoàng tộc Chúa Nguyễn luôn giữ lễ Cư Nho mộ Thích[7] xem Phật giáo và Nho giáo là quốc giáo, trong giới Phật giáo lúc bấy giờ cũng có xu hướng dung hòa tam giáo (Phật, Nho, Lão) để phát triển.
Trong thời kì này các tôn giáo của phương Tây như Công giáo cũng được chấp nhận với một lượng tín đồ khá ít ỏi, nhưng đôi khi vì lý do chính trị mà bị cấm hoạt động ở Đàng Trong.
Việc thuế khóa
Về việc lập sổ thuế, định các ngạch thuế, năm 1632, Sãi vương đã áp dụng phương pháp Bắc Hà (của vua Lê Thánh Tông đặt ra năm 1465, tại thời điểm đó vẫn đang được thi hành ở miền Bắc), cụ thể là cứ mỗi sáu năm lại thực hiện một cuộc kiểm tra lớn, ba năm một cuộc kiểm tra nhỏ. Chia dân chúng ra làm 8 hạng (so với 6 hạng ở Đàng Ngoài). Thuế nộp bằng thực chất (tức là thóc gạo hay ngô khoai v.v..) hoặc bằng tiền bạc.
Để việc đánh thuế ruộng được sát với thực tế, sau vụ gặt chính (vụ mùa) sẽ có quan lại đến từng địa phương khám rồi mới định hạng ruộng nào phải nộp bao nhiêu thuế. Điền thổ được chia ra làm 3 hạng để đánh thuế, ruộng đất xấu thì thuế đánh nhẹ hơn ruộng đất thường hoặc đất tốt. Thuế hoa màu thì căn cứ vào diện tích của điền thổ và loại hoa màu (ngô, khoai, đậu, v.v...) được trồng trọt, cùng với giá trị của ruộng đất. Những công điền (ruộng đất công) thì cấp cho dân cày cấy để nộp thuế, còn ai khai khẩn được đất hoang ra làm ruộng thì được phong cho tư điền (tài sản cá nhân)
Đến đời Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1620–1687), Chúa cho đặt ra một Ty Khuyến nông để giải quyết vấn đề khẩn hoang và để phân hạng các đất ruộng đã cày cấy, trồng trọt.Nhiều dinh điền hay đồn điền đã có từ thế kỷ thứ XV do các vua chúa miền Bắc chiếm được của Champa nay nằm trong khu vực của các Chúa Nguyễn được đem cấp phát cho các quan lại có nhiều công trạng với triều đình để sử dụng làm thực ấp.
Một số loại thuế được áp dụng:
- Thuế đinh: Chúa Sãi chia dân chúng thành 8 hạng và đánh thuế mỗi hạng, gọi là thuế tỷ lệ nộp bằng tiền. Giá biểu phải nộp từ hai quan đến năm quan tiền. Ngoài ra còn nhiều loại thuế khác như thuế gia súc, thuế cúng giỗ, thuế chuyển vận thóc lúa...
- Thuế mỏ và thương chính: Tại Thuận Hóa và Quảng Nam có mỏ vàng, Quảng Ngãi có mỏ bạc, Bố Chính có mỏ sắt. Việc khai khẩn các mỏ này đã đem lại cho chính quyền các Chúa Nguyễn một số tiền thuế lớn.
- Thuế nhập cảng và xuất cảng: dành cho tàu bè ngoại quốc qua lại ở các cửa biển. Ví dụ tàu ở Thượng Hải và Quảng Đông tới phải nộp 3.000 quan, lúc trở ra phải nộp 1/10. Tàu ở Ma Cao (lúc này là thuộc địa của Bồ Đào Nha) và Nhật Bản nộp 4.000 quan, khi về nộp 1/10. Tàu Tiêm La (Thái Lan) hoặc Lã Tống (đảo Luzon - Philippines) phải nộp 2.000 quan. Tàu các nước Tây phương phải nộp gấp đôi tàu Ma Cao và Nhật Bản (8,000 quan và 800 quan). Số thuế này chia ra làm 10 phần, 6 phần nộp kho còn lại dành cho các quan lại và binh lính của Ty Thương chính.
Phân chia địa hạt hành chính
Thuở ban đầu khi Nguyễn Hoàng mới vào trấn thủ đất Thuận Hóa thì cho đóng dinh ở làng Ái Tử (thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị). 13 năm sau (1570) Nguyễn Hoàng lại dời dinh vào làng Trà Bát ở cùng huyện, gọi là Cát Dinh. Đến năm Bính Dần (1626), Chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên, trong quá trình chuẩn bị cho việc chống đối với Chúa Trịnh đã cho dời dinh vào làng Phúc An (thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế bây giờ). Năm Bính Tý (1636), Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan lại dời phủ vào làng Kim Long (thuộc thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế). Năm Đinh Mão (1687) chúa Nguyễn Phúc Thái dời phủ về làng Phú Xuân, gọi là chính dinh, Phú Xuân từ đó trở thành chính dinh của các đời Chúa Nguyễn tiếp theo và là kinh đô của triều đại Nhà Nguyễn sau này. Nơi phủ cũ ở làng Kim Long được dùng làm Thái tông miếu, thờ Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần.
Năm Giáp Tý (1744), Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng vương, ra lệnh đổi phủ ra làm điện, sửa sang phép tắc, định ra triều phục, chia Đàng Trong làm 12 dinh:
- Chính dinh (Phú Xuân).
- Cựu dinh (Ái Tử) - Quảng Trị.
- Quảng Bình dinh.
- Vũ Xá dinh.
- Bố Chính dinh.
- Quảng Nam dinh.
- Phú Yên dinh (đất chiếm của Chiêm Thành).
- Bình Khang dinh (đất chiếm của Chiêm Thành).
- Bình Thuận dinh (đất chiếm của Chiêm Thành).
- Trấn Biên dinh (đất chiếm của Chân Lạp).
- Phiên Trấn dinh (đất chiếm của Chân Lạp).
- Long Hồ dinh (đất chiếm của Chân Lạp).
Cai quản mỗi dinh là một võ quan mang chức Trấn thủ trông coi cả công việc hành chính lẫn quân sự. Các phụ tá có quan Cai bộ trông coi về Ngân khố và một phán quan gọi là Ký lục.
Các hoạt động đối ngoại
Giao thiệp với Chân Lạp
Nguyên nước Chân Lạp ở vào quãng dưới sông Mê-kông, có lắm sông nhiều ngòi, ruộng đất thì nhiều mà nước Việt thường hay mất mùa, dân tình phải đói khổ luôn, và lại vào lúc Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh đánh nhau, cho nên nhiều người bỏ vào khẩn đất, làm ruộng ở Mô-xoài (Bà Rịa) và ở Đồng Nai.
Năm Mậu Tuất (1658), vua nước Chân Lạp mất, chú cháu tranh nhau ngôi vị, sang cầu cứu bên Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ là Chúa Hiền sai quan đem 3.000 quân sang đánh ở Mỗi-xuy (nay thuộc tỉnh Đồng Nai) bắt được vua nước ấy là Nặc Ông Chân đem về giam ở Quảng Bình một độ, rồi tha cho về nước, bắt phải triều cống và phải bênh vực người Việt sang làm ăn ở bên ấy.
Năm Giáp Dần (1674), nước Chân Lạp có người tên Nặc Ông Đài đi cầu viện nước Xiêm-la để đánh Nặc Ông Nộn.
Nặc Ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu ở dinh Thái Khang (nay là Khánh Hòa). Chúa Hiền bèn sai Cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm cùng với Nguyễn Đình Phái làm tham mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc Ông Đài, phá được đồn Sài Gòn, rồi tiến quân lên vây thành Nam Vang (Phnom Pehn). Nặc Ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết ở trong rừng. Nặc Ông Thu ra hàng. Nặc Ông Thu là chính dòng con trưởng cho nên lại lập làm chính vương đóng ở Longúc, để Nặc Ông Nộn làm phó vương, đóng ở Sài Gòn, bắt hằng năm phải triều cống.
Năm Kỷ Tỵ (1679) có quan nhà Minh là tổng binh trấn thủ đất Long Môn (Quảng Tây) Dương Ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh châu Cao, châu Lôi, và châu Liêm (thuộc Quảng Đông) là Trần Thượng Xuyên, phó tướng Trần An Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3000 quân cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt Nam. Chúa Hiền nhân muốn khai khẩn đất Chân Lạp, bèn cho vào ở đất Đông Phố (tức là đất Gia Định). Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc Đã (tức là đất Đồng Nai), ở Mỹ Tho (thuộc Tiền Giang), ở Ban Lân (thuộc Đồng Nai) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường phố, có người phương Tây, người Nhật Bản, người Chà Và (Java) đến buôn bán đông lắm.
Năm Mậu Thìn (1688) những người khác ở Mỹ Tho làm loạn. Hoàng Tiến giết Dương Ngạn Địch đi, rồi đem dân chúng đóng đồn ở Nan Khê, làm tàu đúc súng để chống nhau với người Chân Lạp. Vua Chân Lạp là Nặc Ông Thu cũng đào hào đắp lũy để làm kế cố thủ và bỏ không chịu thần phục chúa Nguyễn nữa.
Bấy giờ Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Trăn sai quan đem quân đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua Chân Lạp phải theo lệ triều cống.
Năm Mậu Dần (1698), Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Đặt Trấn Biên dinh (tức là đất Biên Hòa, Đồng Nai) và Phiên Trấn dinh (tức là Gia Định) sai quan vào cai trị. Lại chiêu mộ những lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất. Còn những người Tàu ở đất Trấn Biên (Đồng Nai) thì lập làm xã Thanh Hà, những người ở đất Phan Trấn (Gia Định) thì lập làm xã Minh Hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta.
Bấy giờ lại có người khách Quảng Đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh bên Tàu, bỏ sang ở Chân Lạp, thấy ở phủ Sài Mạt có nhiều người các nước đến buôn bán, bèn mở sòng đánh bạc, rồi lấy tiền chiêu mộ những lưu dân lập ra 7 xã, gọi là Hà Tiên. Năm Mậu Tý (1708) Mạc Cửu xin nội thuộc Chúa Nguyễn, được Chúa Nguyễn phong cho làm chức Tổng trấn giữ đất Hà Tiên.
Đến khi Mạc Cửu mất, Chúa Nguyễn lại phong cho con Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ làm chức Đô đốc, trấn ở Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho học để khai hóa đất Hà Tiên.
Thời bấy giờ đất Chân Lạp cứ loạn lạc luôn. Năm Kỷ Mão (1699), vua nước ấy là Nặc Ông Thu đem quân chống với quân Chúa Nguyễn. Chúa sai quan Tổng suất Nguyễn Hữu Kính sang đánh. Quân Chúa Nguyễn sang đến thành Nam Vang, Nặc Ông Thu bỏ chạy, con Nặc Ông Nộn là Nặc Ông Yêm mở cửa thành ra hàng. Sau Nặc Ông Thu cũng về hàng, xin theo lệ triều cống như cũ. Quân Chúa Nguyễn rút về.
Được ít lâu vua thứ hai là Nặc Ông Nộn mất, vua thứ nhất là ông Nặc Ông Thu phong cho con Nặc Ông Nộn là Nặc Ông Yêm làm quan và lại gả con gái cho. Sau Nặc Ông Thu già yếu, truyền ngôi cho con là Nặc Ông Thâm.
Năm Ất Dậu (1705), Nặc Ông Thâm nghi cho Nặc Ông Yêm có ý làm phản, bèn khởi binh đánh nhau. Nặc Ông Thâm lại đem quân Xiêm-la về giúp mình. Nặc Ông Yêm phải chạy sang cầu cứu ở Gia Định.
Chúa Nguyễn sai quan Cai cơ là Nguyễn Cửu Vân sang đánh Nặc Ông Thâm. Nguyễn Cửu Vân sang phá được quân Xiêm-la; đem Nặc Ông Yêm về thành La Bích. Từ đó Nặc Ông Thâm ở Xiêm-la, thỉnh thoảng đem quân về đánh Nặc Ông Yêm.
Năm Giáp Ngọ (1714) quân của Nặc Ông Thâm về lấy thành La Bích và vây đánh Nặc Ông Yêm nguy cấp lắm. Nặc Ông Yêm sai người sang Gia Định cầu cứu. Quan Đô đốc Phiên Trấn (Gia Định) là Trần Thượng Xuyên và quan Phó tướng Trấn Biên (Biên Hòa) là Nguyễn Cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm ở trong thành La Bích. Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm sợ hãi, bỏ thành chạy sang Xiêm-la. Bọn ông Trần Thượng Xuyên lập Nặc Ông Yêm lên làm vua Chân Lạp. Năm Tân Hợi (1729), quân Chân Lạp sang quấy nhiễu ở Gia Định. Chúa Nguyễn bèn đặt Sở Điều khiển để thống nhiếp việc binh ở mạn ấy.
Năm Bính Thìn (1736) Nặc Ông Yêm mất, con là Nặc Ông Tha lên làm vua. Đến năm Đinh Mão (1747), Nặc Ông Thâm lại ở bên Xiêm-la về, cử binh đánh đuổi Nặc Ông Tha đi, rồi chiếm lấy ngôi làm vua. Nặc Ông Tha phải bỏ chạy sang Gia Định.
Được ít lâu thì Nặc Ông Thâm mất, con là Nặc Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yếm tranh nhau. Chúa Nguyễn bèn sai quan Điều khiển là Nguyễn Hữu Doãn đem quân sang đánh bọn Nặc Đôn và đem Nặc Ông Tha về nước.
Nặc Ông Tha về được mấy tháng lại bị người con thứ hai của Nặc Ông Thâm là Nặc Nguyên đem quân Xiêm-la sang đánh đuổi đi. Nặc Ông Tha chạy sang, chết ở Gia Định.
Nặc Nguyên về làm vua Chân Lạp thường hay hà hiếp rợ Côn-man và lại thông sứ với Chúa Trịnh ở ngoài Bắc để lập mưu đánh Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết tình ý ấy, đến năm Quý Dậu (1753), sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm Ất Hợi (1755) Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ.
Năm sau, Mạc Thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội, và xin cho về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn Cư Trinh dâng sớ bày tỏ cách khai thác nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá, thì mới chắc chắn được. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân Lạp.
Năm Đinh Sửu (1757), Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc. Nặc Nhuận còn đang lo để xin Chúa Nguyễn phong cho làm vua, thì bị người con rể là Nặc Hinh giết đi, rồi cướp lấy ngôi làm vua.
Quan Tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy bị thuộc hạ giết chết, bấy giờ con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ dâng thư về xin lập Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận cho, sai Mạc Thiên Tứ đem Nặc Tôn về nước.
Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long để tạ ơn Chúa Nguyễn. Chúa bèn sai ông Trương Phúc Du và Nguyễn Cư Trinh đem dinh Long Hồ về xứ Tầm Bào, tức là chỗ tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Long bây giờ, và lại đặt ra ba đạo là Đông Khẩu đạo ở Đồng Tháp, Tân Châu đạo ở Tiền Giang và Châu Đốc đạo ở An Giang.
Nặc Tôn lại dâng 5 phủ là Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ đem những đất ấy dâng Chúa Nguyễn, Chúa cho nhập trấn Hà Tiên để cai quản.
Giao thiệp với Xiêm La
Giao thiệp với Trung Quốc
Năm 1702, Chúa Nguyễn Phúc Chu thấy giang sơn Đàng Trong đã ổn định, đủ sức chống đối với Đàng Ngoài mà không cần e dè ẩn núp dưới chiêu bài phù Lê như xưa nữa, đã cho cử một đoàn sứ bộ mang đồ tiến cống và một tờ biểu sang Quảng Đông xin cầu phong với phương Bắc, lúc này đang đặt dưới sự cai trị của Nhà Thanh. Triều đình Nhà Thanh lúc đó vẫn đang công nhận vua Lê nên không đồng ý nhận cầu phong của Chúa Nguyễn và cho đem trả lại đồ tiến cống. Nguyễn Phúc Chu xưng là Quốc chúa và cho đúc Kim bảo ấn Đại Việt quốc Nguyễn chúa vĩnh trấn chi bảo để làm ấn vàng truyền quốc. Đây là chiếc ấn truyền quốc duy nhất của các triều đại phong kiến Việt Nam còn được lưu truyền tới thời nay và hiện đang được lưu trữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam.[8].
Giao thiệp với phương Tây
Các đời Chúa Nguyễn đầu tiên có chính sách tương đối cởi mở với các thương nhân Tây phương. Từ thời Chúa Sãi – Thụy quận công Nguyễn Phúc Nguyên (1613–1635), người Hà Lan đã đến Đàng Trong buôn bán. Họ tụ tập ở Hội An, mở thương cuộc lớn. Cùng lúc đó Nhà Minh có lệnh cấm xuất cảng một số mặt hàng, còn Nhật Bản dưới quyền của Mạc phủ Tokugawa cũng có lệnh Tỏa Quốc nên việc giao thương phải qua trung gian thứ ba. Trung gian đó là hải cảng Hội An nơi người Hà Lan mua bán hàng hóa Tàu và Nhật, cùng trao đổi sản vật Đàng Trong[9].
Khoảng 1640, có sự tranh chấp với người Hà Lan, có lẽ vì tình nghi họ buôn bán khí giới và làm gián điệp cho Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài nên có lệnh trục xuất và dẹp thương cuộc Hà Lan ở Hội An, hàng hóa bị đốt. Năm 1644, ba tàu chiến Hà Lan đến ngoài khơi cửa Thuận An do Baeck chỉ huy muốn trả thù. Sáu chiến thuyền Đàng Trong ra nghênh chiến dưới quyền của thế tử Nguyễn Phúc Tần. Hai tàu chiến Hà Lan bị đánh đắm, chiếc thứ ba giong buồm thoát được ra Bắc. Chúa Nguyễn từ đó ra lệnh nghiêm cấm không cho người Hà Lan lui tới và cũng cấm thần dân Đàng Trong không được buôn bán với người Hà Lan[9].
Xung đột với Chúa Trịnh
Mở đất Nam Bộ
Suy yếu và diệt vong
Chính sự suy yếu
Chiếm được Thủy Chân Lạp và nhiều lần can thiệp vào tình hình Cao Miên (Campuchia), sự phát triển cơ nghiệp các Chúa Nguyễn lên tới cực thịnh. Năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát chính thức xưng vương, tức là Nguyễn Vũ Vương, tỏ ý ngang hàng với các Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, danh hiệu mà các đời trước vẫn chỉ xưng là "Công".
Sau khi xưng vương, Nguyễn Phúc Khoát đặt ra nhiều nghi lễ, phong tục để tỏ ý là một xứ độc lập với Đàng Ngoài. Ngoài ra, Chúa Nguyễn còn tăng cường xây dựng cung điện, đền đài nguy nga. Các quan lại, tôn thất cũng đua nhau xây cất. Vì thế dân gian phải phục dịch và đóng nhiều thuế hơn trước. Nhiều nông dân bị bóc lột bần cùng.
Trong những năm cuối đời, Nguyễn Vũ Vương đâm ra say mê tửu sắc, không còn thiết tha việc nước nữa. Trương Phúc Loan là cậu ruột của Nguyễn Vũ Vương nên dù không có công trạng gì mà vẫn được cho phụ chính thân cận với chúa. Phúc Loan đã dùng nhiều cách dẫn dụ Chúa Nguyễn vào con đường tửu sắc, bỏ bê việc nước hòng âm mưu chiếm đoạt quyền lực sau này. Loan tạo điều kiện để Nguyễn Vũ Vương loạn luân với người em họ (con chú ruột) là công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu[10] (con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền là em ruột của Ninh vương Nguyễn Phúc Chú[11] (Thụ) - cha của Vũ vương) sinh được một người con trai là công tử Nguyễn Phúc Thuần. Để tránh tai tiếng, Nguyễn Phúc Thuần được nuôi kín ở hậu cung. Theo thông tin trên trang Nguyễn Phúc tộc, thì:
- Để dễ dàng trong việc tiếm quyền, chính Trương Phúc Loan đã khuyến dụ Chúa Võ đi vào con đường nữ sắc. Một cung phi rất được ngài sủng ái là Công nữ Nguyễn Phúc Ngọc Cầu, con của Dận quốc công Nguyễn Phúc Điền. Đây chính là mầm mống gây cảnh suy tàn của triều đại sau này[12].
Hệ thống thuế của Chúa Nguyễn rất cồng kềnh và phức tạp. Năm 1741, Nguyễn Vũ Vương ra lệnh truy thu thuế của cả những người đã bỏ trốn với gia đình họ, tới năm 1765 lại ra lệnh truy thu thuế của 10 năm trước. Giai cấp quý tộc và địa chủ tìm nhiều cách để chiếm đoạt đất đai của dân để hưởng thụ xa hoa. Sử ghi lại rằng đại thần Trương Phúc Loan, sau một trận lụt phải trải vàng ra khắp sân nhà để phơi, từ xa trông lại sáng chóe một góc[13]. Nhiều nông dân bị phá sản. Điều đó khiến mâu thuẫn xã hội Đàng Trong trở nên gay gắt. Dấu hiệu suy vong của dòng Chúa Nguyễn bắt đầu lộ rõ.
Nạn quyền thần Trương Phúc Loan
Năm 1765, Nguyễn Phúc Khoát qua đời, chính sự Họ Nguyễn rối ren quanh việc chọn người lên ngôi chúa. Nguyễn Vũ Vương vốn trước lập con thứ 9 là Hiệu làm Thế tử, nhưng Hiệu mất sớm, để lại người con là Dương. Con cả của Nguyễn Vũ Vương là Chương cũng đã mất. Đáng lý ra theo thứ tự khi Nguyễn Vũ Vương mất, phải lập người con thứ hai là Luân lên ngôi, nhưng quyền thần Trương Phúc Loan nắm lấy triều chính, tự xưng là "Quốc phó", giết Luân mà lập người con thứ 16 của Nguyễn Vũ Vương là Thuần mới 12 tuổi lên ngôi, tức là Định vương, để dễ bề thao túng. Trong triều đình cũng như bên ngoài dư luận nhiều người bất bình vì khi Luân đã chết thì ngôi chúa lẽ ra phải thuộc về Nguyễn Phúc Dương.
Trương Phúc Loan trở thành quyền thần lấn lướt, mọi quyền hành đều do Trương Phúc Loan thao túng, Chúa Nguyễn Phúc Thuần chỉ còn là bù nhìn trên ngai. Loan tự nhận là Quốc phó, giữ Bộ Hộ, quản cơ Trung tượng kiêm Tàu vụ, thâu tóm mọi quyền lực về chính trị và kinh tế. Thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân... đều rơi vào tay Loan, hàng năm Loan chỉ nộp vào ngân sách quốc gia 1–2 phần mười số thuế thu được. Sử sách còn ghi lại rằng ngày nắng, Loan cho phơi của cải châu báu ra sân làm sáng rực cả một góc trời. Cả nhà họ Trương chia nhau nắm giữ mọi chức vụ chủ chốt. Người bấy giờ gọi là Trương Tần Cối.
Các quan lại cấp dưới cũng học theo thói xa xỉ đó, nạn tham ô, hối lộ cũng vì thế mà ngày càng nghiêm trọng. Lê Quý Đôn trong Phủ Biên tạp lục có nhận xét về thời kỳ này của Chúa Nguyễn Đàng Trong là: "... từ quan to đến quan nhỏ, nhà cửa chạm trổ, tường xây bằng gạch đá, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, ấm chén bằng sứ, yên ngựa – dây cương đều nạm vàng, nạm bạc, quần áo là lược, nệm hoa, chiếu mây, lấy phú quý phong lưu để khoe khoang lẫn nhau... Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng..."[14].
Cùng lúc đó, Lại bộ thượng thư Nguyễn Cư Trinh, trụ cột của triều Nguyễn qua đời (tháng 5 năm 1767). Họ Trương không còn ai ngăn trở, càng ra sức lộng hành: bán quan tước, ăn tiền tha tội, hình phạt phiền nhiễu, thuế má nặng nề, nhân dân cực khổ. Những người có tài như Tôn Thất Dục bị Trương Phúc Loan tìm cách hãm hại. Tài chính vô cùng kiệt quệ. Cơ nghiệp Chúa Nguyễn đến đây là suy vong không thể cứu vãn nổi.
Tây Sơn nổi dậy, Chúa Nguyễn sụp đổ
Nhận thấy chính sự của Chúa Nguyễn quá rối ren, lòng dân ly tán, năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ khởi binh ở Tây Sơn với danh nghĩa ủng hộ Nguyễn Phúc Dương.
Lực lượng Tây Sơn nổi tiếng vì bình đẳng, bình quyền, không tham ô của dân và nêu cao khẩu hiệu: "Lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo", do đó Tây Sơn có được sự ủng hộ rất lớn của dân chúng, nhất là những người nông dân nghèo bị bần cùng hóa bởi tình trạng địa chủ chiếm đất và sưu cao thuế nặng của Chúa Nguyễn. Những năm đầu tiên, lực lượng của nghĩa quân còn yếu, nhưng được sự giúp đỡ của nhân dân quanh vùng nên ngày càng mạnh lên.
Năm 1772, cuộc khởi nghĩa lan rộng, nghĩa quân đã thắng một số trận chống lại quân Chúa Nguyễn được phái tới trấn áp cuộc khởi nghĩa. Năm 1773, quân Tây Sơn chiếm thành Quy Nhơn (Bình Định). Thành này là nơi các nhà buôn, vì đã phải chịu nhiều luật lệ ngăn cấm do chính quyền Chúa Nguyễn đưa ra, đã quay sang ủng hộ tài chính cho Tây Sơn.
Quân Trịnh ở phía bắc nhân cơ hội Chúa Nguyễn rối loạn bèn đem quân đánh vào. Chúa Nguyễn không địch nổi hai kẻ địch phải bỏ chạy vào Gia Định. Tây Sơn bèn hợp tác với quân Trịnh để đánh Nguyễn. Năm 1777, Nguyễn Huệ đem quân vào đánh chiếm Gia Định, quân Tây Sơn truy lùng gắt gao, cả Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương cùng một số quan lại đã bị bắt và bị giết.
Con Nguyễn Phúc Luân là Nguyễn Phúc Ánh đã bắt đầu sống một mình long đong vất vả và dần dần thu thập binh lính từ các nơi về đảo Thổ Châu và lấy lại Sài Gòn rồi tiến ra Bình Thuận. Sau khi đã củng cố lực lượng, năm Canh Tý 1780, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vương tại Gia Định và xưng là Nguyễn vương. Sự nghiệp của các Chúa Nguyễn dày công xây dựng 200 năm đã tiêu tan và lịch sử bước sang một trang mới.
Nghi vấn về việc nhà Tây Sơn phá mộ các Chúa Nguyễn
Vào thời Nhà Nguyễn, các vua Nguyễn truy diệt tất cả những gì liên quan đến nhà Tây Sơn, bởi quân Tây Sơn đã đánh đổ các chúa Nguyễn. Vua Quang Trung bị gán cho là "giặc cướp", "thảo khấu" trong các bộ sử của nhà Nguyễn, những hành vi xấu xa cũng thường bị gán cho ông. Ví dụ, sách Đại Nam thực lục do nhà Nguyễn biên soạn quy tội Nguyễn Huệ đã ra lệnh phá mộ 8 chúa Nguyễn[15]:
- “Trước kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ ghét, không muốn chôn nữa.
- Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy. Huệ bực tức, sai đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh Gia Long] Huệ cũng sai Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc tâu lên.
"Nguyễn Phúc Tộc thế phả" thì ghi là:
- “Theo truyền thuyết, khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức Hưng Tổ ném xuống sông thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân phụ, nghe người làng tường thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ. Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền hút những giọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục giữa hai người)”
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng việc Quang Trung cho phá lăng tẩm chúa Nguyễn là do sử quan thời Nguyễn cố ý gán ghép, thiếu bằng cứ xác đáng. Đúng là các lăng mộ chúa Nguyễn đã bị phá hủy vào thời kỳ đó, nhưng Phú Xuân vào giai đoạn 1781-1785 từng thuộc sự kiểm soát của quân chúa Trịnh, rồi sau đó lại chiến sự liên miên, có rất nhiều các nhóm thổ phỉ chuyên đào mộ để cướp của, nên chưa thể quy trách nhiệm cho quân Tây Sơn nếu chỉ dựa vào ghi chép của Đại Nam thực lục. Rất có thể các sử quan nhà Nguyễn đã dựa vào một việc có thực (lăng tẩm chúa Nguyễn bị phá) rồi cố ý gán trách nhiệm cho quân Tây Sơn, nhằm bào chữa cho việc Nguyễn Ánh trả thù nhà Tây Sơn tàn khốc sau này, cũng như để bôi nhọ uy tín của nhà Tây Sơn trong nhân dân. Luận điểm này được căn cứ bởi 5 chi tiết:
- Ngoài bộ sách Đại Nam thực lục và "Nguyễn Phúc Tộc thế phả" do chính nhà Nguyễn viết, không có bộ sử nào khác của Việt Nam thời đó cũng như không có giáo sỹ phương Tây đương thời nào ghi chép lại việc này, dù đây là 1 sự kiện đủ lớn để gây chấn động cả đất nước. Kể cả cuốn Hoàng Lê nhất thống chí của các học giả Ngô Gia văn phái đương thời (vốn có quan điểm chống Tây Sơn) cũng không ghi lại.
- Ghi chép của Đại Nam thực lục lại không nói rõ việc đào mộ diễn ra vào ngày tháng năm nào, trong khi đây là một sự kiện rất quan trọng với nhà Nguyễn. Điều này cho thấy các sử quan nhà Nguyễn cũng không nắm được lăng các chúa Nguyễn bị phá khi nào, nên càng không có đủ cơ sở để quy tội cho quân Tây Sơn.
- Chính ghi chép của Đại Nam thực lục cũng có nhiều điểm huyền bí, ngày nay xem xét lại một cách khoa học thì rõ ràng là người viết hư cấu. Sách này ghi là quân Tây Sơn đang đào huyệt thì "bỗng có hai con cọp ở bụi rậm nhảy ra", rồi thì "nhà Đô đốc Nguyễn Văn Ngũ bỗng dưng phát hỏa". Các chi tiết này rõ ràng là tình tiết hư cấu thời phong kiến nhằm thể hiện rằng nhà Nguyễn có "thiên mệnh", "trời phù hộ nhà Nguyễn". Sách này cũng cho là "Huệ đánh trận hay thua" nên tức giận mà phá lăng chúa Nguyễn. Đây là luận điểm vô căn cứ, vì Nguyễn Huệ đánh trận luôn chiến thắng Nguyễn Ánh, chưa hề thua một trận nào.
- Ghi chép của Đại Nam thực lục mâu thuẫn với "Nguyễn Phúc Tộc thế phả". Đại Nam thực lục ghi rằng "Nguyễn Ngọc Huyên cùng với các con ban đêm lặn xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi", nhưng "Nguyễn Phúc Tộc thế phả" lại ghi rằng Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá mới tình cờ vớt được hài cốt. Điều này cho thấy ít nhất 1 trong 2 cuốn sách là hư cấu (thậm chí có thể cả hai đều là hư cấu), các sử quan nhà Nguyễn không hề nắm được chi tiết vụ việc nên mới viết ra các thông tin mâu thuẫn nhau.
- Quân Tây Sơn có kỷ luật nghiêm minh, khi đánh ra Bắc diệt chúa Trịnh, tiến vào thành Thăng Long cũng không hề cướp phá lăng mộ của các vua Lê - chúa Trịnh. Vậy thì cũng không có lý do để quân Tây Sơn phá lăng của các chúa Nguyễn. Nguyễn Huệ là một vị vua khôn ngoan, ông biết rõ nhiều người dân Đàng Trong vẫn nhớ về chúa Nguyễn, nên sẽ không phá lăng chúa Nguyễn để khiến người dân bất bình.
Tóm lại, việc quân Tây Sơn cho phá lăng tẩm các chúa Nguyễn có nhiều khả năng là do sử quan thời Nguyễn hư cấu ra, nhằm bào chữa cho việc Nguyễn Ánh trả thù nhà Tây Sơn tàn khốc sau này, cũng như để hạ uy tín của nhà Tây Sơn trong nhân dân.
Danh sách các đời chúa Nguyễn
Nguyễn Kim là người đặt nền móng cho các Chúa Nguyễn sau này. Sinh thời ông không tự xưng danh chúa nhưng được con cháu Chúa Nguyễn sau này tôn miếu hiệu Triệu Tổ và được phong thụy hiệu Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Vĩ Tích Chiêu Huân Tĩnh vương xem như là chúa. Tuy nhiên ông không được xem là vị Chúa Nguyễn đầu tiên. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Di Mưu Thùy Dụ Khâm Cung Huệ Triết Hiển Hựu Hoành Hưu Tế Thế Khải Vận Nhân Thánh Tĩnh hoàng đế (貽謀垂裕欽恭惠哲顯祐宏休濟世啟運仁聖靖皇帝).
- Nguyễn Hoàng tức Chúa Tiên hay Tiên vương (1525–1613), con út của Triệu Tổ Nguyễn Kim, xưng chúa năm 1558, có 10 con trai và hai con gái. Một người con gái lấy Chúa Trịnh Tráng. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế. Ông là vị Chúa Nguyễn đầu tiên.
- Nguyễn Phúc Nguyên tức Chúa Sãi, Chúa Bụt hay Sãi vương (1563–1635), con trai thứ sáu của Chúa Tiên, kế nghiệp năm 1613 vì các anh đều chết sớm và một anh bị Chúa Trịnh giữ tại Đàng Ngoài, có 11 con trai và bốn con gái. Chúa Sãi là người đầu tiên trong dòng họ mang họ Nguyễn Phúc. Tương truyền lúc mẹ ngài có thai chiêm bao thấy có vị thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ "Phúc". Lúc kể lại chuyện, mọi người chúc mừng bà và đề nghị đứa bé ra đời được đặt tên là "Phúc". Nhưng bà nói rằng, nếu chỉ đặt tên Phúc cho đứa bé thì chỉ một mình nó hưởng, để cho nhiều người trong dòng họ được hưởng phúc, bà đề nghị lấy chữ này làm chữ lót. Và khi thế tử ra đời bà đặt tên là Nguyễn Phúc Nguyên. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hy Tông Hiếu Văn hoàng đế.
- Nguyễn Phúc Lan tức Chúa Thượng hay Thượng vương (1601–1648), con trai thứ hai của chúa Sãi, kế nghiệp năm 1635 vì anh trưởng chết sớm, có ba con trai và một con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thần Tông Hiếu Chiêu hoàng đế.
- Nguyễn Phúc Tần tức Chúa Hiền hay Hiền vương (1620–1687), con trai thứ hai của Chúa Thượng, kế nghiệp năm 1648 vì cả anh lẫn em đều chết sớm, có sáu con trai và ba con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế.
- Nguyễn Phúc Thái tức Chúa Nghĩa hay Nghĩa vương (1650–1691), con trai thứ hai của Chúa Hiền, kế nghiệp năm 1687 vì anh trưởng chết sớm, có năm con trai và năm con gái. (Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả thì Chúa Nghĩa là Nguyễn Phúc Thái, còn Nguyễn Phúc Trăn không có, mà chỉ có Nguyễn Phúc Trân, em kế của chúa tức Cương quận công). Chúa Nghĩa là người dời đô đến Huế. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế.
- Nguyễn Phúc Chu [16] tức Chúa Minh hay Minh vương (còn gọi là Quốc chúa, chữ Hán: 國主) (1675–1725), con trai trưởng của Chúa Nghĩa, kế nghiệp năm 1691, có 38 con trai và bốn con gái. Chúa Minh là người đầu tiên sai sứ sang nhà Thanh để xin phong vương nhưng không được công nhận vì nhà Thanh vẫn xem vua Lê của Đàng Ngoài là vua của toàn xứ Việt lúc đó. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế.
- Nguyễn Phúc Chú [17] tức Chúa Ninh hay Ninh vương (1697–1738), con trai trưởng của Chúa Minh, kế nghiệp năm 1725, có ba con trai và sáu con gái. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Túc Tông Hiếu Ninh hoàng đế.
- Nguyễn Phúc Khoát tức Chúa Vũ hay Vũ vương (1714–1765), con trai trưởng của Chúa Ninh, kế nghiệp năm 1738, có 18 con trai và 12 con gái. Vì năm 1744 vào dịp Tết Nguyên Đán có một cây sung nở hoa và một lời sấm ''Bát thế hoàn trung đô''. Đến lúc này chúa Trịnh đã xưng vương nên Nguyễn Phúc Khoát cũng gọi mình là Vũ vương vào năm 1744 và xem Đàng Trong như một nước độc lập. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Thế Tông Hiếu Vũ hoàng đế.
- Nguyễn Phúc Thuần tức Chúa Định hay Định vương (1754–1777), con trai thứ 16 của Vũ vương, kế nghiệp năm 1765, không có con. Khi còn sống, Vũ vương đã có ý định cho con trai thứ chín là Nguyễn Phúc Hiệu nối ngôi. Sau khi Nguyễn Phúc Hiệu chết, và con ông này hãy còn quá nhỏ, Vũ vương định cho con trai thứ hai của mình là Nguyễn Phúc Luân (hay Nguyễn Phúc Côn, là Cha của Thế Tổ Cao hoàng đế Gia Long sau này) nối ngôi. Khi Vũ vương chết, một quyền thần trong triều là Trương Phúc Loan đã giết Nguyễn Phúc Luân rồi lập Nguyễn Phúc Thuần, lúc đó mới 12 tuổi, lên ngôi để dễ kiềm chế. Năm 1777, ông bị nhà Tây Sơn giết khi ở tuổi 26, chưa có con nối dõi. Nhà Nguyễn sau này truy tôn ông là Duệ Tông Hiếu Định hoàng đế.
- Nguyễn Phúc Dương tức Tân Chính vương được lên ngôi chúa sau khi Lý Tài ép Nguyễn Phúc Thuần nhường ngôi cho con của anh mình (Nguyễn Phúc Dương là con trai của Nguyễn Phúc Hiệu). Lúc ấy chúa Nguyễn chia làm 2 phe cùng nhau cai trị: Một bên là Nguyễn Phúc Thuần, Nguyễn Phúc Ánh (Gia Long) và một bên là Nguyễn Phúc Dương, Lý Tài. Năm 1777, cả hai phe đều bị nhà Tây Sơn tiêu diệt, riêng Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát thân.
- Nguyễn Phúc Ánh tức Nguyễn Thế Tổ hoàng đế. Sau khi diệt nhà Tây Sơn, ông xưng đế, lấy niên hiệu là Gia Long.
Niên biểu
Kiêng huý
Người Đàng Trong kỵ húy các Chúa Nguyễn nên đọc biến âm một số từ ngữ:
- Tên Chúa Tiên là Hoàng nên đổi họ Hoàng thành Huỳnh, chữ "hoàng" cũng đọc là "huỳnh" (lưu huỳnh).
- Nguyễn Phúc Khoát là "Vũ vương", nên người họ Vũ ở Đàng Trong đổi thành họ Võ.
- Chữ "Phúc" đọc thành "Phước" để tránh chữ "Phúc" trong họ Nguyễn Phúc của vua Chúa nhà Nguyễn.
- Chữ "Cảnh" là tên Nguyễn Phúc Cảnh (con cả Nguyễn Ánh, người được Ánh đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh Tây Sơn) đọc là "kiểng", nên "cây cảnh" gọi là "cây kiểng".
- Chữ "Kính" là tên Nguyễn Hữu Kính, người khai lập Sài Gòn phải đọc chệch là "kiếng" nên "tấm kính" gọi là "tấm kiếng".
- Chữ "Tông" là tên Nguyễn Phúc Miên Tông, tức vua Thiệu Trị (cháu nội Nguyễn Ánh), phải đọc là "tôn". Do đó một loạt sử sách chép miếu hiệu các vua như Lý Thánh Tông, Lê Thánh Tông, Trần Thái Tông, v.v... đều ghi là Lý Thánh Tôn, Lê Thánh Tôn, Trần Thái Tôn, v.v... Đến tận sau này một số sách sử thời hiện đại vẫn bị ảnh hưởng này và chép miếu hiệu các vua từ "Tông" thành "Tôn". Các tên đường phố tại miền nam Việt Nam, mà tên gọi là miếu hiệu các vị vua, hiện nay cũng đa phần ghi Tông thành Tôn. Chẳng những thế, một dòng họ hoàng tộc, cũng vốn phải đọc là "Tông Thất", nhưng vì kiêng húy chữ Tông này nên phải đọc thành "Tôn Thất".
- Chữ "Thì" là tên thời nhỏ Nguyễn Phúc Thì của vua Tự Đức nên đọc thành Thời.
- Chữ "Nhậm" là tên chữ Nguyễn Phúc Hồng Nhậm của vua Tự Đức nên đọc thành Nhiệm.
Ngoài ra còn nhiều chữ kiêng húy nữa nhưng ít ảnh hưởng đến đời sống xã hội hơn.
Chú thích
Xem thêm
Tham khảo
- Đại Việt sử ký toàn thư
- Trần Trọng Kim - "Việt Nam sử lược"
- Phạm Văn Sơn - "Việt sử toàn thư"
- Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ – Nhìn lại lịch sử, Nhà xuất bản Văn hoá thông tin, 2003
Liên kết ngoài
- Nguyen Dynasty (Vietnamese history) tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Chúa Nguyễn tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản điện tử.