Chi Rắn hổ mang

Chi Rắn hổ mang (danh pháp khoa học: Naja) là một chi rắn độc thuộc họ Elapidae, thường quen gọi là rắn hổ mang. Những loài thuộc chi này phân bố khắp châu Phi, Tây Nam Á, Nam Á, và Đông Nam Á.

Chi Rắn hổ mang
Rắn hổ mang Ấn Độ (Naja naja).
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Reptilia
Bộ (ordo)Squamata
Phân bộ (subordo)Serpentes
Họ (familia)Elapidae
Chi (genus)Naja
Laurenti, 1768
Loài điển hình
Naja lutescens[1]
Laurenti, 1768
Các loài
32. Xem bài.
Danh pháp đồng nghĩa

Naia Merrem, 1820
Naga Nicholson, 1874
Uraeus Wagler, 1830
Aspis (nec Laurenti 1768) Wagler, 1830
Tomyris Eichwald, 1831
Palaeonaja Hoffstetter, 1939
Afronaja Wallach, Wüster & Broadley, 2009
Spracklandus Hoser, 2009
Boulengerina Dollo, 1886

Paranaja Loveridge, 1944

Cho tới gần đây chi Naja chứa 20 - 22 loài, nhưng nó đã trải qua mọt số sửa đổi phân loại học trong những năm gần đây, vì thế số lượng loài dao động đáng kể trong các nguồn tài liệu khác nhau.[2] Tuy nhiên, có sự hỗ trợ đáng kể cho sửa đổi năm 2009 that synonymised the genera Boulengerina and Paranaja with Naja.[3] Theo sửa đổi này, chi Naja hiện tại chứa khoảng 32 loài.

Phần đầu của Naja melanoleuca với răng nọc (A) và tuyến nọc (B).

Từ nguyên

Nguồn gốc tên gọi khoa học của chi này là từ tiếng Phạn nāga (với "g" cứng) nghĩa là "rắn". Một số người cho rằng từ tiếng Phạn này là cùng nguồn gốc với tên gọi tương ứng trong tiếng Anh "snake", tiếng German: *snēk-a-, Tiền-IE: *(s)nēg-o-, nhưng điều này là không thể.[4] Mayrhofer gọi từ nguyên này là "unglaubhaft ", "không đáng tin cậy", và gợi ý một từ nguyên có thể khả thi hơn kết nối nó với từ tiếng Phạn nagna, "không lông, trần trụi".[5]

Mô tả

Các loài rắn của chi Naja phần lớn là rắn với thân hình tương đối thanh mảnh, với chiều dài dao động mạnh. Phần lớn các loài có thể dài tới 1,84 m (6,0 ft). Chiều dài tối đa của một số loài to lớn nhất là khoảng 3,1 m (10 ft), với rắn hổ mang rừng (Naja melanoleuca) ở châu Phi được cho là loài dài nhất.[6] Tất cả các loài đều có khả năng đặc trưng là nâng cao phần thân phía trước lên khỏi mặt đất và phình cổ để làm ra vẻ to lớn hơn đối với những kẻ thù tiềm năng.

Phân loại

Hai nghiên cứu phát sinh chủng loài gần đây đã hỗ trợ cho việc hợp nhất các loài trước đây xếp trong các chi BoulengerinaParanaja vào chi Naja, do cả hai đều có quan hệ họ hàng gần với rắn hổ mang rừng (Naja melanoleuca).[7][8]

Wallach et al. gợi ý về việc công nhận 4 phân chi trong phạm vi chi NajaNaja cho rắn hổ mang châu Á, Boulengerina cho rắn hổ mang rừng, nước và đào bới châu Phi, Uraeus cho nhóm rắn hổ mang Ai Cập và Cape, Afronaja cho rắn hổ phì châu Phi.[3]

Phát sinh chủng loài

Cây phát sinh chủng loài dưới đây vẽ theo Wallach et al. (2009).[3]

 Naja 
(Naja)

Naja (Naja) naja

Naja (Naja) kaouthia

Naja (Naja) atra

Naja (Naja) mandalayensis

Naja (Naja) siamensis

Naja (Naja) sputatrix

(Afronaja)

Naja (Afronaja) pallida

Naja (Afronaja) nubiae

Naja (Afronaja) katiensis

Naja (Afronaja) nigricollis

Naja (Afronaja) ashei

Naja (Afronaja) mossambica

Naja (Afronaja) nigricincta

(Boulengerina)

Naja (Boulengerina) multifasciata

Naja (Boulengerina) christyi

Naja (Boulengerina) annulata

Naja (Boulengerina) melanoleuca

(Uraeus)

Naja (Uraeus) nivea

Naja (Uraeus) senegalensis

Naja (Uraeus) haje

Naja (Uraeus) arabica

Naja (Uraeus) annulifera

Naja (Uraeus) anchietae

Các loài rắn hổ mang

Loài[2]Tác giả[2]Phân loài*[2]Tên thường gọiPhân bố
N. anchietaeBocage, 18790Rắn hổ mang Anchieta, rắn hổ mang AngolaAngola, Botswana, Namibia, Zambia, đông Zimbabwe.
N. annulata(Buchholz & Peters, 1876)1Rắn hổ mang nước sọcCameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Congo, Guinea Xích đạo, Gabon, Rwanda, tỉnh Cabinda (Angola).
N. annuliferaPeters, 18540Botswana, Malawi, Mozambique, Nam Phi, Swaziland, Zambia, Zimbabwe.
N. antiquaRage, 19760Rắn hổ mang MoroccoĐịa tầng thế Miocen ở Morocco.
N. arabicaScortecci, 19320Rắn hổ mang Ả RậpOman, Saudi Arabia, Yemen.
N. asheiWüster & Broadley, 20070Rắn hổ phì lớnNam Ethiopia, Kenya, Somalia, đông Uganda.
N. atraCantor, 18420Rắn hổ mang Trung Quốc, rắn hổ mang thườngNam Trung Quốc, bắc Lào, Đài Loan, bắc Việt Nam.
N. christyi(Boulenger, 1904)0Rắn hổ mang nước CongoCộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Congo, tỉnh Cabinda (Angola).
N. guineensisBroadley, Trape, Chirio, Ineich &Wüster, 20180Rắn hổ mang rừng đenGhana, Guinea, Guinea-Bissau, Bờ Biển Ngà, Liberia, Sierra Leone, Togo.
N. hajeLinnaeus, 17580Rắn hổ mang Ai CậpTanzania, Kenya, Somalia, Ethiopia, Uganda, Nam Sudan, Sudan, Cameroon, Nigeria, Niger, Burkina Faso, Mali, Senegal, Mauritania, Morocco, Algeria, Tunisia, Libya và Ai Cập.
N. ibericaSzyndlar, 1985Rắn hổ mang Tây Ban NhaĐịa tầng thế Miocen ở Tây Ban Nha.
N. kaouthiaLesson, 18310Rắn hổ đất, rắn hổ mang một mắt kínhBangladesh, Bhutan, Burma, Campuchia, nam Trung Quốc, đông Ấn Độ, Lào, tây bắc Malaysia, Nepal, Thái Lan, đông nam Tây Tạng, Việt Nam.
N. katiensisAngel, 19220Rắn hổ mang Mali cobra (Rắn hổ phì Kati, rắn hổ phì Tây Phi, rắn hổ phì nâu miền tây)Benin, Burkina Faso, Cameroon, Ghana, Guinea, Ivory Coast, Mali, Gambia, Mauritania, Niger, Nigeria, Senegal, Togo
N. mandalayensisSlowinski & Wüster, 20000Rắn hổ phì Mandalay (rắn hổ phì Myanmar)Myanmar
N. melanoleucaHallowell, 18570Rắn hổ mang rừng Trung PhiAngola, Benin, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Guinea Xích đạo, Gabon, Nigeria.
N. mossambicaPeters, 18540Rắn hổ phì MozambiqueViễn đông nam Angola, Botswana, Malawi, Mozambique, Somalia, đông bắc Namibia, Nam Phi, Swaziland, Tanzania (cả đảo Pemba), Zambia, Zimbabwe.
N. multifasciataWerner, 19020Rắn nhiều sọcCameroon, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Gabon.
N. najaT(Linnaeus, 1758)0Rắn hổ mang Ấn ĐộBangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Nepal, Pakistan, Sri Lanka.
N. nigricinctaBogert, 19401Rắn hổ phì vằnAngola, Namibia, Nam Phi.
N. nigricollisReinhardt, 18430Rắn hổ phì cổ đenAngola, Benin, Burkina Faso, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Cộng hòa Dân chủ Congo (trừ trung tâm), Cộng hòa Congo, Ethiopia, Gabon, Gambia, Ghana, Guinea Bissau, Guinea, Bờ Biển Ngà, Kenya, Liberia, Mali, Mauritania, Namibia, Niger, Nigeria, Rwanda, Senegal, Sierra Leone, Sudan, Tanzania, Somalia, Togo, Uganda, Zambia.
N. nivea(Linnaeus, 1758)0Rắn hổ mang Cape (rắn hổ mang vàng)Botswana, Lesotho, Namibia, Nam Phi.
N. nubiaeWüster & Broadley, 20030Rắn hổ phì NubiaChad, Ai Cập, Eritrea, Niger, Sudan.
N. oxiana(Eichwald, 1831)0Rắn hổ mang CaspiAfghanistan, tây bắc Ấn Độ, Iran, Kyrgyzstan, Pakistan, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan.
N. pallidaBoulenger, 18960Rắn hổ phì đỏDjibouti, Ethiopia, Kenya, Somalia, Tanzania.
N. peroescobariCeríaco, Marques, Schmitz & Bauer, 20170Rắn hổ mang rừng São ToméSão Tomé & Príncipe (São Tomé).
N. philippinensisTaylor, 19220Rắn hổ mang PhilippinesPhilippines (Luzon, Mindoro).
N. romaniHofstetter, 19390†Rắn hổ mang châu ÂuĐịa tầng thế Miocen ở Pháp, Đức, Áo, Romania và Ukraina.
N. sagittiferaWall, 19130Rắn hổ mang AndamanẤn Độ (quần đảo Andaman)
N. samarensisPeters, 18610Rắn hổ mang SamarPhilippines (Mindanao, Bohol, Leyte, Samar, Camiguin).
N. savannulaBroadley, Trape, Chirio & Wüster, 20180Rắn hổ mang sọc Tây PhiBenin, Burkina Faso, Cameroon, Chad, Gambia, Ghana, Guinea, Bờ Biển Ngà, Mali, Niger, Nigeria, Senegal, Togo.
N. senegalensisTrape, Chirio & Wüster, 20090Rắn hổ mang SenegalBenin, Burkina Faso, Ghana, Guinea, Mali, Niger, Nigeria, Senegal.
N. siamensisLaurenti, 17680Rắn hổ mang phun nọc Đông Dương, rắn hổ mang Xiêm, rắn hổ mèoCampuchia, Lào, Thái Lan, nam Việt Nam.
N. sputatrixF. Boie, 18270Rắn hổ phì JavaIndonesia (Java, quần đảo Sunda Nhỏ, Đông Timor).
N. subfulvaLaurent, 19550Rắn hổ mang rừng nâuAngola, Burundi, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Chad, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ethiopia, Kenya, Malawi, Mozambique, Nigeria, Rwanda, Somalia, Nam Phi, Nam Sudan, Tanzania, Uganda, Zambia, Zimbabwe.
N. sumatranaMüller, 18870Rắn hổ phì xích đạoBrunei, Indonesia (Sumatra, Borneo, Bangka, Belitung), Malaysia, Philippines (Palawan), nam Thái Lan, Singapore.

* Không gồm phân loài nguyên chủng.
Tuyệt chủng.
T Loài điển hình.[9]

Nọc

Các loài rắn hổ mang Naja có nọc độc mạnh nhất
STTLoàiLD50 SC
1N. oxiana0,10 mg/kg[10]
2N. philippinensis0,14 mg/kg[11][12]
3N. samarensis0,21 mg/kg[13]
4N. melanoleuca0,225 mg/kg[10][14]
5 N. siamensis0,25 mg/kg[10]
6N. atra0,28 mg/kg[10][15]
7N. naja0,29 mg/kg[10][15]
8N. nivea0,37 mg/kg[15]
9N. kaouthia0,47 mg/kg[10]
10N. sumatrana0,60 mg/kg[16]

Tất cả các loài của chi Naja đều có khả năng tạo ra những vết cắn gây tử vong cho người. Phần lớn các loài có nọc chứa chất độc neurotoxin mạnh, khi vào cơ thể sẽ tấn công hệ thần kinh, gây ra liệt, nhưng cũng có thể chứa độc tố tế bào gây ra sưng và hoại tử, và có tác động chống đông máu đáng kể. Một vài loài có cả các thành phần độc tố tim mạch trong nọc của chúng.

Một vài loài Naja, được nhắc tới tại đây như là rắn hổ phì, có cơ chế tiết nọc chuyên biệt hóa, trong đó các răng nọc trước của chúng, thay vì giải phóng nọc qua các đầu mũi (tương tự như kim tiêm), lại có khe hở dạng rãnh xoắn ở bề mặt trước cho phép chúng phun nọc ra ngoài miệng. Trong khi nói chung được nói tới như là "phun phì phì", thì hành động này là giống như phun ra. Khoảng cách và độ chính xác mà chúng có thể phun nọc ra thì dao động theo từng loài, nhưng nó được sử dụng như là một cơ chế phòng vệ. Một khi được phun trúng da của nạn nhân, nọc có tác động như là một tác nhân gây kích thích mãnh liệt. Nếu rơi trúng mắt nó có thể gây ra cảm giác thiêu đốt mãnh liệt và gây mù lòa tạm thời hay vĩnh viễn nếu không được xử lý ngay và đúng phương pháp.

Rắn hổ mang Caspi (N. oxiana) ở Trung Á là loài rắn hổ mang có nọc độc mạnh nhất. Trung bình liều LD50 dưới da của N. oxiana ở chuột nhắt là 0,18 mg/kg, và giá trị thấp nhất đã thông báo của N. oxiana là 0,10 mg/kg dưới da.[10] trong khi N. philippinensis có LD50 dưới da ở chuột nhắt là 0,2 mg/kg.[12] Giá trị thấp nhất đã thông báo của N. philippinensis là 0,14 mg/kg dưới da.[11] Ở chuột nhắt, LD50 tiêm ven của rắn hổ mang Caspi là 0,037 mg/kg,[14] và của rắn hổ mang Philippine là 0,05 mg/kg.[17] Rắn hổ mang Caspi là loài rắn hổ mang có nọc độc mạnh nhất trên thế giới (đối với chuột nhắt phòng thí nghiệm). Nọc thô của N. oxiana có liều gây tử vong đã biết thấp nhất (LCLo) là 0,005 mg/kg, thấp nhất trong số các loài rắn hổ mang đã được ghi nhận, phát sinh từ một trường hợp riêng lẻ bị ngộ độc bởi tiêm vào hệ thống não thất.[18] Sau rắn hổ mang Caspi và Philippine là rắn hổ mang rừng rậm (N. melanoleuca) có LD50 là 0,225 mg/kg dưới da,[13][14] kế tiếp là rắn hổ mang Samar (N. samarensis) với giá trị LD50 0,23 mg/kg dưới da.[13] Các loài rắn hổ mang nước ở Trung Phi cũng có nọc độc rất mạnh. LD50 liên màng bụng ở chuột nhắt của nọc từ Naja annulataNaja christyi tương ứng là 0,143 mg/kg và 0,120 mg/kg.

Các loài Naja cũng là nhóm rắn quan trọng về mặt y tế do số lượng vết cắn và số ca tử vong mà chúng gây ra trong khắp phạm vi phân bố của chúng. Chúng có mặt ở nhiều nơi tại châu Phi (bao gồm một số phần của Sahara nơi Naja haje có thể được tìm thấy), Tây Nam Á, Trung Á, Nam Á, Đông ÁĐông Nam Á. Khoảng 30–40% số vết cắn của một số loài rắn hổ mang là các vết cắn khô, nghĩa là không tiết nọc.[cần dẫn nguồn]

Nhiều yếu tố ảnh hưởng tới các khác biệt trong các ca tử vong giữa các loài khác nhau trong cùng một chi. Trong số rắn hổ mang, các ca với hậu quả tử vong của các vết cắn ở cả nạn nhân được điều trị lẫn không được điều trị có thể là rất lớn. Chẳng hạn, tỷ lệ tử vong trong số các ca bị rắn hổ mang tiết nọc và không điều trị như một nhóm tổng thể dao động từ 6,5–10% ở N kaouthia[19] tới khoảng 70% ở N. oxiana.[20] Tỷ lệ tử vong do vết cắn của Naja atra là 15-20%,[19] của N. nigricollis là 5–10%,[21] của N. nivea là 50%,[19] của N. melanoleuca là 65–70%, của N. naja là 20–25%,[22] và của N. samarensis là 50–60%.[23]

Trong các ca khi nạn nhân của các vết cắn của rắn hổ mang được điều trị y tế theo thủ tục xử lý thông thường đối với kiểu nọc rắn hổ, các khác biệt trong tiên lượng phụ thuộc vào loài rắn hổ mang đã gây ra vết cắn. Phần lớn các bệnh nhân bị tiết nọc được điều trị đã phục hồi nhanh và hoàn toàn, trong khi những bệnh nhân khác cũng với cách điều trị này lại vẫn tử vong. Các yếu tố quan trọng nhất trong các khác biệt về tỷ lệ tử vong do nọc rắn hổ mang là mức độ nghiêm trọng của vết cắn và loài rắn hổ mang đã gây ra sự tiết nọc. Rắn hổ mang Caspi (N. oxiana) và rắn hổ mang Philippine (N. philippinensis) là 2 loài rắn hổ mang với nọc độc hại nhất dựa theo các nghiên cứu LD50 trên chuột nhắt. Cả hai loài đều gây ra ngộ độc thần kinh rõ nét và sự tiến triển của các triệu chứng đe dọa sinh mạng sau khi tiết nọc. Người ta từng ghi nhận sự tử vong chỉ 30 phút sau khi bị một trong hai loài này tiết nọc. Nọc thuần túy độc tố thần kinh của N. philippinensis gây ra ngộ độc thần kinh rõ nét với tổn thương mô và đau đớn cục bộ ở mức tối thiểu[24] và bệnh nhân phản ứng rất tốt với trị liệu kháng nọc nếu điều trị được thực hành nhanh chóng ngay sau khi bị tiết nọc. Sự tiết nọc do N. oxiana gây ra là phức tạp hơn. Ngoài biểu hiện ngộ độc thần kinh rõ nét, các thành phần độc tố tế bào và độc tố tim mạch rất mạnh có trong nọc của loài này. Các tác động cục bộ được biểu lộ trong tất cả các ca tiết nọc - tổn thương mạnh, sưng to, thâm tím, phồng rộp và hoại tử mô. Tổn thương thận và độc tính tim mạch cũng là các biểu lộ lâm sàng do tiết nọc của N. oxiana, mặc dù chúng là hiếm gặp và chỉ là thứ cấp.[25] Tỷ lệ tử vong không điều trị ở các ca bị N. oxiana tiết nọc lên tới 80%, cao nhất trong số các loài thuộc chi Naja.[20] Kháng nọc không đạt hiệu quả cao đối với sự tiết nọc của loài này như đối với các loài rắn hổ mang châu Á khác trong cùng khu vực chúng sinh sống, như đối với rắn hổ mang Ấn Độ (N. naja) và cũng là do độc tính nguy hiểm trong nọc của loài này nên người ta phải sử dụng một lượng kháng nọc lớn hơn cho bệnh nhân. Kết quả là một loại huyết thanh kháng nọc đơn trị đã được Viện Nghiên cứu Vaccin và Huyết thanh Razi ở Iran phát triển. Phản ứng đối với điều trị bằng loại kháng nọc này ở bệnh nhân nói chung là kém, vì thế thở máy và luồn ống nội khí quản là cần thiết. Tỷ lệ tử vong trong điều trị tiết nọc của N. oxiana vẫn là tương đối cao (tới 30%) khi so với tất cả các loài rắn hổ mang khác (<1%).[26]

Tham khảo

Liên kết ngoài