Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu

hoàng hậu nhà Thanh

Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu (chữ Hán: 孝德顯皇后, tiếng Mãn: ᡥᡳᠶᠣᠣᡧᡠᠩᡤᠠ
ᡝᡵᡩᡝᠮᡠ
ᡳᠯᡝᡨᡠ
ᡥᡡᠸᠠᠩᡥᡝᠣ
, Möllendorff: hiyoošungga erdemu iletu hūwangheo, Abkai: hiyouxungga erdemu iletu hvwangheu; 12 tháng 4 năm 1831 - 24 tháng 1 năm 1851), là nguyên phối Đích phúc tấn của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế khi ông vẫn còn là Hoàng tử.

Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu
孝德顯皇后
Hàm Phong Đế nguyên phối
Hoàng hậu Đại Thanh (truy phong)
Thông tin chung
Sinh(1831-04-12)12 tháng 4, 1831
Mất24 tháng 1, 1851(1851-01-24) (19 tuổi)
An táng22 tháng 9 năm 1865
Định lăng (定陵), Thanh Đông lăng
Phối ngẫuThanh Văn Tông
Hàm Phong Đế
Thụy hiệu
Hiếu Đức Ôn Huệ Thành Thuận Từ Trang Khác Thận Huy Ý Cung Thiên Tán Thánh Hiển Hoàng hậu
(孝德溫惠誠順慈莊恪慎徽懿恭天贊聖顯皇后)
Tước hiệu[Đích phúc tấn; 嫡福晋]
[Hoàng hậu; 皇后]
(truy phong)
Thân phụPhú Thái
Thân mẫuÁi Tân Giác La thị

Cũng như Hiếu Mục Thành Hoàng hậu, dù là nguyên phối thê tử của Hoàng đế, nhưng Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu chưa bao giờ được làm Hoàng hậu khi còn sống, chỉ được truy phong ngôi Hoàng hậu khi đã qua đời.

Cuộc đời

Cận chân dung Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu Tát Khắc Đạt thị.

Hiếu Đức Hoàng hậu sinh ngày 1 tháng 3 (âm lịch) năm Đạo Quang thứ 21, xuất thân từ gia tộc Tát Khắc Đạt thị (薩克達氏) thuộc Mãn Châu Tương Lam kỳ, một gia tộc tầm trung có ở toàn bộ Bát kỳ, song phân bố chủ yếu tại Tương Lam kỳ.

Tằng tổ phụ Minh Sơn (明山), giám sinh xuất thân, những năm cuối Càn Long lấy Bút thiếp nhập sĩ, đời Gia Khánh từ Án sát, Bố chính phủ đến Tuần phủ Quý Châu, Văn Quý Tổng đốc, nhậm bộ Hình Thượng thư thời Đạo Quang năm đầu. Tổ phụ Kỳ Xương (祺昌), làm đến Viên ngoại lang bộ Binh. Phụ thân Phú Thái (富泰), làm Thái Thường tự Khanh. Tằng tổ mẫu Khố Nhĩ thị (庫爾氏), tổ mẫu Na Lạp thị, gia thế không rõ, nhưng mẹ bà là Quận chúa, con gái thứ ba của Trịnh Thận Thân vương Ô Nhĩ Cung A, có thể thấy dòng dõi bà sớm đã tiến vào hôn nhân với nhà các thế gia Mãn Châu.

Trong nhà bà không thấy ghi nhận có nam duệ, chỉ biết bà có một em gái về sau gả cho Phụng quốc Tướng quân Phổ Thiện (溥善) thuộc Hòa vương phủ hệ. Do không có con trai, người trong họ đưa cháu Đức Mậu (德懋) làm kế tự.

Căn cứ Đại Thanh Hoàng tử thành hôn lệ thường, Tát Khắc Đạt thị hẳn được chọn vào tầm năm Đạo Quang thứ 27 (1847) mùa xuân hoặc mùa hạ, do chính Đạo Quang Đế tuyển chọn, khi đó bà 16 tuổi, phù hợp lứa tuổi thành hôn. Ngày 25 tháng 10, mùa đông, Tát Khắc Đạt thị cùng Hoàng tứ tử Dịch Trữ, con trai thứ tư của Đạo Quang Đế làm lễ đính hôn. Sang năm sau (1848), ngày 27 tháng 2, Tát Khắc Đạt thị chính thức được gả cho Dịch Trữ, nghiễm nhiên trở thành Đích Phúc tấn.

Căn cứ [Thanh cung y án] ghi lại, Tát Khắc Đạt thị vào cung vừa tháng 2, thì ở tháng 8 liền mắc phong hàn mạo cảm. Sang năm tháng 4, lại thấy chứng phong thấp xuất hiện nhiều. Tời tháng 8 thì thân thể đã rất hư nhược. Vào đầu tháng 12 thì bệnh tình chuyển biến tốt hơn, ghi lại: “Từ viên đến sở nội, thần khí đều hảo, tứ chi cũng có thể di động chuyển, duy khí huyết thượng nhược, có khi ho khan.”. Thế nhưng đột nhiên vào ngày 10 tháng đó, suy yếu chịu phong, lại lần nữa không khoẻ, sang ngày 11 lại cảm thấy khá tốt rồi cuối cùng vào ngày 12 bệnh chuyển nặng và bạo vong. Có học giả chuyên môn từng phân tích y án này, cho rằng đây là biểu hiện của bệnh gan trường kỳ.

Năm thứ 29 (1850), ngày 12 tháng 12 (tức ngày 24 tháng 1 năm 1851), giờ Tỵ, Tát Khắc Đạt thị đột ngột qua đời khi chỉ mới 19 tuổi và không có người con nào với Dịch Trữ. Ngày 18 tháng 12 (âm lịch), quan tài của bà phụng di Điền thôn để tạm an.

Truy phong Hoàng hậu

Năm Đạo Quang thứ 30 (1850), ngày 15 tháng 1 (tức ngày 26 tháng 2 dương lịch), Đạo Quang Đế băng hà, Thái tử Dịch Trữ nối ngôi, sử gọi Hàm Phong Đế. Tiếc thương thê tử yểu mệnh, Hàm Phong Đế lập tức ra chỉ dụ truy phong Đích phi Tát Khắc Đạt thị làm Hoàng hậu[1], thụy hiệu rằng Hiếu Đức Hoàng hậu (孝德皇后).

Ngày 27 tháng 10 (âm lịch) cùng năm đó, mệnh Trang Thân vương Dịch Nhân làm Chính sứ, Thành Quận vương Tái Duệ làm Phó sứ, cầm sách bảo, chính thức tiến hành đại lễ dâng thụy hiệu cho Hiếu Đức Hoàng hậu[2]. Chiếu cáo thiên hạ[3].

Sách văn rằng:

Cùng năm, ngày 22 tháng 12 (âm lịch), Hàm Phong Đế hạ chỉ cho cả dòng tộc bà đều được nâng thành Mãn Châu Tương Hoàng kỳ. Do Phú Thái không có con trai, nên người cháu kế tự Đức Mậu và con cháu thế tập tước vị [Thừa Ân công; 承恩公], gia tộc Tát Khắc Đạt thị từ đó bình bình an hưởng phú quý.

Hợp táng Địa cung

Năm Hàm Phong thứ 11 (1861), ngày 26 tháng 7 (âm lịch), Đồng Trị Đế dâng tôn thụy hiệu thêm cho Hiếu Đức Hoàng hậu, thêm Đế thụy [Hiển] của Hàm Phong Đế[4]. Sang ngày 6 tháng 12 cùng năm, tiến hành làm lễ truy dâng thêm thụy hiệu, toàn xưng rằng Hiếu Đức Ôn Huệ Thành Thuận Từ Trang Cung Thiên Tán Thánh Hiển Hoàng hậu (孝德溫惠誠順慈莊恭天贊聖顯皇后)[5].

Năm Đồng Trị nguyên niên (1862), tháng 9, kim quan của Hiếu Đức Hoàng hậu từ Điền thôn phụng di đến Tĩnh An trang tạm an. Tháng 10, làm lễ thăng phụ thần vị của Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu lên điện Phụng Tiên. Sang năm thứ 4 (1865), ngày 22 tháng 9, giờ Thìn, Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu cùng hợp táng với Hàm Phong Đế vào địa cung của Định lăng (定陵), Thanh Đông lăng, cùng ngày hôm đó thăng phụ thần vị vào Thái Miếu.

Qua các đời Đồng Trị, Quang TựTuyên Thống, thụy hiệu đầy đủ của bà là Hiếu Đức Ôn Huệ Thành Thuận Từ Trang Khác Thận Huy Ý Cung Thiên Tán Thánh Hiển Hoàng hậu (孝德溫惠誠順慈莊恪慎徽懿恭天贊聖顯皇后). Hoàng hậu được cải táng ở Định lăng (定陵), Thanh Đông lăng.

Xem thêm

Tham khảo