Joanne (album)

album phòng thu năm 2016 của Lady Gaga

Joanne là album phòng thu thứ năm của nghệ sĩ thu âm người Mỹ Lady Gaga, phát hành ngày 21 tháng 10 năm 2016 bởi Streamline và Interscope Records như là sản phẩm âm nhạc tiếp theo của Gaga sau Artpop (2013) và Cheek to Cheek (2014). Để thực hiện album, Gaga đã hợp tác với một số nhà sản xuất âm nhạc, bao gồm Mark Ronson, Jeff Bhasker, BloodPop và RedOne, và tham gia đồng sản xuất ở phần lớn những bản thu âm. Về mặt âm nhạc, Joanne thể hiện một phong cách âm nhạc "trần trụi" với soft rockdance-pop nhằm nhấn mạnh khả năng thanh nhạc của nữ ca sĩ, một sự khác biệt lớn so với Artpop. Mặt khác, phần ca từ của nó tập trung vào chủ đề gia đình và những cảm xúc của cuộc sống, đặc biệt là sự ra đi của người chị gái của cha cô, Joanne Stefani Germanotta, có ảnh hưởng sâu sắc đến album.

Joanne
Album phòng thu của Lady Gaga
Phát hành21 tháng 10 năm 2016 (2016-10-21)
Thu âm2015–2016
Thể loại
Thời lượng39:05
Hãng đĩa
Sản xuất
  • Lady Gaga (đồng điều hành sản xuất)
  • Mark Ronson (đồng điều hành sản xuất)
  • Jeff Bhasker
  • BloodPop
  • Emile Haynie
  • Josh Homme
  • Kevin Parker
  • RedOne
Thứ tự album của Lady Gaga
Cheek to Cheek
(2014)
Joanne
(2016)
A Star Is Born
(2018)
Đĩa đơn từ Joanne
  1. "Perfect Illusion"
    Phát hành: 9 tháng 9 năm 2016
  2. "Million Reasons"
    Phát hành: 8 tháng 11 năm 2016
  3. "Joanne"
    Phát hành: 22 tháng 12 năm 2017[1]

Joanne nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, và lọt vào danh sách những album hay nhất năm của một vài tổ chức âm nhạc. Nó ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 201,000 bản đơn vị album tương đương, trở thành album quán quân thứ tư của Gaga tại Hoa Kỳ. Trên thị trường quốc tế, album đứng đầu các bảng xếp hạng ở Argentina, Brazil, Mexico, Đài Loan và bảng xếp hạng quốc tế của Nhật Bản và Hàn Quốc, trong khi lọt vào top 10 tại hơn 15 thị trường khác. Hai đĩa đơn thương mại và một đĩa đơn quảng bá đã được phát hành từ Joanne. Đĩa đơn đầu tiên, "Perfect Illusion", đạt vị trí số một tại Pháp và Tây Ban Nha, cũng như lọt vào top 20 tại hơn 10 quốc gia như Úc, Vương quốc Anh, và Hoa Kỳ. Nó được tiếp nối bởi "Million Reasons" đã lọt vào top 40 tại hầu hết những thị trường nó xuất hiện, bao gồm vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100.

Tổng quan

Gaga trong một diện mạo mới sau thời kỳ Artpop.

Album phòng thu thứ ba của Gaga, Artpop được phát hành vào tháng 11 năm 2013, và nhận được những phản ứng trái chiều từ giới chuyên môn.[2] Nó ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard 200, và đã bán được 2.5 triệu bản tính đến tháng 7 năm 2014.[3][4] Trong khoảng thời gian này, Gaga chia tay người quản lý lâu năm Troy Carter vào cuối năm 2013,[5] và đến tháng 6 năm 2014, cô và người quản lý mới Bobby Campbell đã quyết định gia nhập Artist Nation, một bộ phận quản lý nghệ sĩ của Live Nation Entertainment.[6] Đối diện với những vấn đề xung quanh cuộc sống cá nhân của mình, Gaga thú nhận sự chán nản về bản thân và tài năng của mình, và từng có quyết định từ bỏ âm nhạc hoàn toàn.[7] Những phản ứng trái chiều đối với Artpop đã dẫn đến một sự thay đổi lớn về mặt hình ảnh của nữ ca sĩ. Với diện mạo có phần nhẹ nhàng hơn trước truyền thông, Gaga đã nhấn mạnh sức mạnh trong giọng hát của cô. Một màn trình diễn tri ân bộ phim The Sound of Music tại lễ trao giải Oscar lần thứ 87, nơi cô hát một liên khúc các bài hát từ bộ phim, đã được giới phê bình khen ngợi.[6][8] Gaga và Tony Bennett cũng phát hành Cheek to Cheek, một album song ca mang âm hưởng jazz, vào tháng 9 năm 2014 và nhận được những đánh giá thuận lợi.[9] Nó ra mắt trên đỉnh bảng xếp hạng Billboard 200, trở thành album quán quân thứ 3 liên tiếp của Gaga tại Hoa Kỳ,[10] và giành một giải Grammy cho Album giọng Pop truyền thống xuất sắc nhất.[11]

Ngoài ra, Gaga còn tham gia thủ vai chính trong American Horror Story: Hotel (2015–2016) thuộc mùa thứ năm của bộ phim truyền hình Mỹ American Horror Story, và chiến thắng một giải Quả cầu vàng ở hạng mục Nữ diễn viên xuất sắc nhất - Phim ngắn tập hoặc Truyền hình.[12][13]. Trong màn phát biểu nhận giải của mình, nữ ca sĩ khẳng định rằng cô sẽ phát hành album phòng thu thứ năm của cô vào cuối năm 2016.[14][15] Trong suốt phần lớn của năm 2015 và 2016, Gaga tiết lộ quá trình thực hiện và ghi âm album trên các tài khoản mạng xã hội của mình. Cô đã hợp tác với nhà sản xuất lâu năm RedOne, cũng như những cộng tác viên mới như Giorgio Moroder, Mark RonsonNile Rodgers.[16]

Danh sách bài hát

STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Diamond Heart"
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
  • Homme[a]
  • Jeff Bhasker[a]
3:30
2."A-Yo"
  • Germanotta
  • Hillary Lindsey
  • Ronson
  • M. Tucker
  • Ronson
  • BloodPop
  • Gaga
3:28
3."Joanne"
  • Germanotta
  • Ronson
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:17
4."John Wayne"
  • Germanotta
  • Ronson
  • Tucker
  • Homme
  • Ronson
  • BloodPop
  • Gaga
2:54
5."Dancin' In Circles"
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:27
6."Perfect Illusion"
  • Kevin Parker
  • Germanotta
  • Ronson
  • Tucker
  • Ronson
  • Parker
  • Gaga
  • BloodPop
3:02
7."Millions Reason"
  • Germanotta
  • Lindsey
  • Ronson
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:25
8."Sinner's Prayer"
  • Germanotta
  • Josh Tillman
  • Ronson
  • Thomas Brenneck
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:43
9."Come To Mama"
  • Tillman
  • Germanotta
  • Emile Haynie
  • Ronson
  • Haynie
  • Gaga
  • BloodPop
4:15
10."Hey Girl" (hợp tác với Florence Welch)
  • Germanotta
  • Welch
  • Ronson
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
4:15
11."Angel Down"
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:49
Tổng thời lượng:39:05
Track bổ sung phiên bản sang trọng[17]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
12."Grigio Girls"
  • Germanotta
  • Lindsey
  • Ronson
  • Tucker
  • Ronson
  • Gaga
  • BloodPop
3:00
13."Just Another Day"Germanotta
  • Ronson
  • Gaga
2:58
14."Angel Down" (bản thu nháp)
  • Germanotta
  • Khayat
2:20
Tổng thời lượng:47:23
Track bổ sung phiên bản CD tại Nhật[18]
STTNhan đềThời lượng
15."Million Reasons" (bản thu nháp)3:23
Tổng thời lượng:50:46

Chú thích

  • ^[a] – nghĩa là đồng sản xuất

Xếp hạng

Xếp hạng cuối năm

Bảng xếp hạng (2016)Vị trí
Australian Albums (ARIA)[54]74
Belgian Albums (Ultratop Flanders)[55]99
Belgian Albums (Ultratop Wallonia)[56]97
French Albums (SNEP)[57]156
Italian Albums (FIMI)[58]85
Korean International Albums (Gaon)[59]94
Mexican Albums (AMPROFON)[60]52
Spanish Albums (PROMUSICAE)[61]92
Swiss Albums (Schweizer Hitparade)[62]69
UK Albums (OCC)[63]84
US Billboard 200[64]108
US Digital Albums (Billboard)[65]23
US Top Album Sales (Billboard)[66]53

Chứng nhận

Quốc giaChứng nhậnDoanh số
Canada (Music Canada)[67]Vàng40.000^
México (AMPROFON)[68]Vàng30.000
Anh Quốc (BPI)[70]Vàng90,624[69]
Hoa Kỳ (RIAA)[72]Bạch kim515,000[71]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Xem thêm

Tham khảo

Liên kết ngoài