Porter (lớp tàu khu trục)

Lớp tàu khu trục Porter bao gồm tám tàu khu trục có trọng lượng choán nước 1.850 tấn được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. Chúng đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Tàu khu trục Porter
Khái quát lớp tàu
Tên gọiLớp tàu khu trục Porter
Xưởng đóng tàu
  • New York Shipbuilding
  • Bethlehem Shipbuilding Corporation (Xưởng tàu Fore River)
Bên khai thácHoa Kỳ Hải quân Hoa Kỳ
Lớp trướcLớp tàu khu trục Farragut
Lớp saulớp Mahan
Thời gian đóng tàu19331937
Thời gian hoạt động19361950
Hoàn thành8
Bị mất1
Nghỉ hưu7
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàuTàu khu trục
Trọng tải choán nước1.850 tấn Anh (1.880 t) (tiêu chuẩn)
Chiều dài381 ft (116 m)
Sườn ngang36 ft 2 in (11,02 m)
Mớn nước10 ft 5 in (3,18 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Curtis
  • 4 × nồi hơi ống nước
  • 2 × trục
  • công suất 50.000 hp (37.000 kW)
Tốc độ35 hải lý trên giờ (65 km/h)
Tầm xa6.500 nmi (12.040 km; 7.480 mi) ở tốc độ 12 hải lý trên giờ (22 km/h; 14 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa194 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí
  • ban đầu:1 × hệ thống kiểm soát hỏa lực Mk33[1]
  • 8 × pháo 5 in (130 mm)/38 caliber (4×2)
  • 8 × pháo 1,1 inch/75 caliber (2×4)
  • 8 × ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm) (2×4)
  • 2 × đường ray thả mìn sâu
  • khoảng 1942:1 × hệ thống kiểm soát hỏa lực Mk33
  • 6 × pháo 5 in (130 mm)/38 caliber (3×2)
  • 2 × pháo phòng không Bofors 40 mm (1×2)
  • 6 × pháo phòng không Oerlikon 20 mm
  • 8 × ống phóng ngư lôi 21 in (530 mm) (2×4)
  • 2 × đường ray thả mìn sâu

Chế tạo

Bốn chiếc đầu tiên được hãng New York Shipbuilding đặt lườn vào năm 1933, và bốn chiếc tiếp theo được đặt lườn vào năm 1934 tại xưởng tàu của hãng Bethlehem Steel Corporation ở Quincy, Massachusetts. Tất cả được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1936, ngoại trừ Winslow được cho nhập biên chế vào năm 1937.

Lịch sử phát triển

Một kiểu soái hạm khu trục lớn hơn tàu khu trục thông thường đã từng được cân nhắc từ năm 1921. Thực sự là Ủy ban Tướng lĩnh đã khuyến cáo chế tạo năm chiếc theo kiểu như vậy trong năm đó. Sử gia hải quân Norman Friedman tin rằng số lượng khổng lồ các tàu khu trục lớp lớp WickesClemson đã ngăn trở Quốc hội Hoa Kỳ trong việc mua sắm chúng. Ủy ban Tướng lĩnh rất quan tâm đến việc trang bị một kiểu tàu chiến với hệ thống động lực cao áp sử dụng nhiệt độ cao.[2] Giới hạn do Hiệp ước Hải quân London đặt ra cùng các tàu khu trục lớn của Pháp dường như trở thành điểm thay đổi với các khuyến cáo năm 1930, đưa đến một chu kỳ chế tạo tàu chiến mới.[3] Các khuyến cáo về tàu khu trục tại Geneva cũng ảnh hưởng đến thiết kế, do giới hạn đặt cho soái hạm khu trục là 1850 tấn.[3] Đã có sự thảo luận sâu rộng về cấu hình vũ khí: pháo phòng không 5 in (130 mm)/25 caliber được ưa chuộng vì dễ sử dụng và xoay trở nhanh trên một kiểu tàu chiến nhanh và linh hoạt. Một đề nghị khác thay thế là kiểu pháo chống hạm 5 in (130 mm)/51 caliber, mạnh mẽ nhưng hoàn toàn vô dụng đối với máy bay. Các cuộc thảo luận đã đưa đến việc áp dụng kiểu pháo lưỡng dụng 5 in (130 mm)/38 caliber giờ đây đã sẵn sàng và được Văn phòng Đạn dược rất ưa chuộng.[3]

Thiết kế

Lớp Porter được chế tạo nhằm đối phó với các tàu khu trục lớn thuộc lớp Fubuki, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào lúc đó, và ban đầu là những soái hạm dẫn đầu chi hạm đội khu trục. Chúng thoạt tiên được trang bị tám khẩu pháo 5 in (130 mm)/38 caliber trên bốn bệ Mark 22 Đơn dụng nòng đôi chỉ có khả năng đối biển.[4] Điều này cho thấy chúng bị nặng bên trên, trong khi máy bay trở thành một mối đe dọa lớn, nên trong chiến tranh, các bệ 51 và 54 được thay thế bằng các khẩu pháo đa dụng (đối biển và đối không) nòng đôi,[4] và thêm nhiều súng phòng không cỡ nhỏ được trang bị. Trên một số con tàu, bệ 52 được thay bằng một khẩu đội Bofors 40 mm phòng không bốn nòng, và bệ 53 trở thành một khẩu 5 inch/38-caliber đa dụng nòng đơn. Có thêm một số pháo 40 mm được bổ sung giữa tàu.

Những chiếc trong lớp

TàuĐặt lườnHạ thủyHoạt độngSố phận
Porter18 tháng 12 năm 193312 tháng 12 năm 193525 tháng 8 năm 1936Đánh đắm sau khi hư hại bởi ngư lôi, 26 tháng 10 năm 1942
Selfridge18 tháng 12 năm 193318 tháng 4 năm 193625 tháng 11 năm 1936Bán để tháo dỡ, 20 tháng 12 năm 1946
McDougal18 tháng 12 năm 193317 tháng 7 năm 193623 tháng 12 năm 1936Bán để tháo dỡ, 2 tháng 8 năm 1949
Winslow18 tháng 12 năm 193321 tháng 9 năm 193617 tháng 2 năm 1937Bán để tháo dỡ, 23 tháng 2 năm 1959
Phelps2 tháng 1 năm 193418 tháng 7 năm 193526 tháng 2 năm 1936Bán để tháo dỡ, 10 tháng 8 năm 1947
Clark2 tháng 1 năm 193415 tháng 10 năm 193520 tháng 5 năm 1936Bán để tháo dỡ, 29 tháng 3 năm 1946
Moffett2 tháng 1 năm 193411 tháng 12 năm 193528 tháng 8 năm 1936Bán để tháo dỡ, 16 tháng 5 năm 1947
Balch16 tháng 5 năm 193424 tháng 3 năm 193620 tháng 10 năm 1936Bán để tháo dỡ, 1946

Xem thêm

Tư liệu liên quan tới Porter class destroyers tại Wikimedia Commons

Tham khảo

  • Friedman, Norman (2004). U.S. Destroyers An Illustrated Design History. Naval Institute Press. ISBN 9781557504425.

Liên kết ngoài