Song Khê
Song Khê là một xã thuộc thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam.
Song Khê | ||
---|---|---|
Xã | ||
Xã Song Khê | ||
Hành chính | ||
Quốc gia | Việt Nam | |
Vùng | Đông Bắc Bộ | |
Tỉnh | Bắc Giang | |
Thành phố | Bắc Giang | |
Địa lý | ||
Tọa độ: 21°15′9″B 106°10′34″Đ / 21,2525°B 106,17611°Đ | ||
Diện tích | 4,49 km² | |
Dân số (2010) | ||
Tổng cộng | 4.620 người | |
Mật độ | 1.029 người/km² | |
Khác | ||
Mã hành chính | 07705[1] | |
Địa lý
Xã Song Khê nằm ở phía tây nam thành phố Bắc Giang, có vị trí địa lý:
- Phía đông giáp xã Đồng Sơn và huyện Yên Dũng
- Phía tây giáp huyện Yên Dũng và thị xã Việt Yên
- Phía nam giáp huyện Yên Dũng
- Phía bắc giáp xã Tân Mỹ.
Xã có diện tích 4,49 km², dân số năm 2010 là 4.620 người[2], mật độ dân số đạt 1.029 người/km².
Trên địa bàn xã có Quốc lộ 1 mới chạy qua và tỉnh lộ 398 (trước đây là tỉnh lộ 284).
Hành chính
Xã Song Khê được chia thành 4 thôn: Liêm Xuyên (còn gọi là Lịm Xuyên), Song Khê 1, Song Khê 2, Yên Khê.
Lịch sử
Trước đây, xã Song Khê thuộc huyện Yên Dũng.
Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 36/NQ-CP[2]. Theo đó, chuyển toàn bộ 448,82 ha diện tích tự nhiên và 4.620 người của xã Song Khê về thành phố Bắc Giang quản lý.
Ngày 11 tháng 7 năm 2014, HĐND tỉnh Bắc Giang ban hành Nghị quyết số 12/NQ-HĐND[3] về việc thành lập thôn Song Khê 1 và thôn Song Khê 2 trên cơ sở thôn Song Khê.
Văn hóa
Di tích
- Đền thờ Hoàng giáp Đào Toàn Bân và Trạng nguyên Đào Sư Tích
- Linh Quang Tự (Chùa Liêm Xuyên) thuộc làng Liêm Xuyên đã được xếp hạng là Di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
- Mục Ngưu Tự - Chùa Trẻ thuộc làng Yên Khê.
- Hoa Khê Tự (Chùa Yên Khê) thuộc làng Yên Khê
- Đền An Khê (Nghè làng Yên Khê).
Lễ hội
Cũng giống như nhiều địa phương khác trong tỉnh, ở Song Khê cũng có nhiều lễ hội dân gian được tổ chức ở quy mô cấp thôn (làng) vào đầu xuân năm mới như:
- Ngày 09 tháng giêng hàng năm, hội làng Yên Khê diễn ra tại Hoa Khê Tự.
- Ngày 15 tháng giêng hàng năm, hội làng Song Khê cũ.
- Ngày 10 tháng hai hàng năm, hội làng Liêm Xuyên diễn ra tại Linh Quang Tự
Hội làng ở Song Khê tùy thuộc vào khả năng và quy mô tổ chức của các làng mà có các trò chơi dân gian như đấu vật, cờ tướng, đập niêu,... đặc biệt là chèo thuyền hát Quan họ giao duyên trên ao đình và hát quan họ trong chòi hát. Đây là nét đặc trưng không thể thiếu trong những lễ hội dân gian ở trấn Kinh Bắc xưa.
Danh nhân
- Quách Nhẫn, ông thi đỗ Thám hoa (Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ tam danh) tại khoa Ất Hợi, niên hiệu Bảo Phù năm thứ 3 (1275) đời vua Trần Thánh Tông.[5]
- Đào Toàn Bân, ông thi đỗ Hoàng giáp (Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân) tại khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Thiệu Phong năm thứ 12 (1352) đời vua Trần Dụ Tông.[6] Theo tấm bia Kim bảng lưu phương tại Văn Miếu Bắc Ninh ghi thì ông tên là Đào Toàn Phú.[7] Còn một số tài liệu khác ghi ông tên là Đào Toàn Mân.[8]
- Đào Sư Tích, ông là con trai của Hoàng giáp Đào Toàn Bân, ông thi đỗ Trạng nguyên (Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh) tại khoa thi Giáp Dần, niên hiệu Long Khánh năm thứ 2 (1374) đời vua Trần Duệ Tông. Sau này, ông giữ các chức quan như Nhập nội hành khiển, Hữu ty Lang trung và trở thành một cận thần của Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông.[9][10]
- Đào Thúc Viện, ông thi đỗ Tiến sĩ (Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân) tại khoa thi Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống năm thứ 5 (1502) đời vua Lê Hiến Tông.[11]
- Ninh Triết, ông thi đỗ Tiến sĩ tại khoa thi Tân Mùi, niên hiệu Sùng Khang năm thứ 6 (1571) đời vua Mạc Mậu Hợp.[12]
- Nguyễn Khắc Nhu, ông là một chí sĩ yêu nước đầu thế kỉ 20 và là một trong những trụ cột của Việt Nam Quốc dân Đảng thời kỳ trước năm 1930.[13]
- Ninh Văn Phan, ông là một chính khách và nhà hoạt động cách mạng từ trước năm 1945.
- Nguyễn Khắc Đạm, ông là con trai của nhà yêu nước Nguyễn Khắc Nhu, ông là một nhà nghiên cứu sử học nổi tiếng ở thế kỉ 20.