Tụ Long

Tụ Long (chữ Hán: 聚龍[1] hay 聚竜[2]) là địa danh cũ của Việt Nam, gắn liền với mỏ đồng Tụ Long[3] (聚龍銅廠)[4] nằm trên vùng biên giới Việt Nam-Trung Quốc, là vùng đất từng thuộc Việt Nam từ trước thời nhà Lê sơLê trung hưng cho đến cuối thế kỷ 19 đầu thời kỳ Pháp thuộc ở Việt Nam thì bị cắt cho Trung Quốc, theo Công ước Pháp-Thanh 1887Công ước Pháp-Thanh 1895.

Nguồn gốc

Bản đồ vùng Tụ Long trên biên giới Việt Nam - Trung Quốc năm 1902. (Trong bản đồ địa danh Tụ Long được ghi chú là Tu Long, nằm thẳng ngay bên dưới địa danh Ma Yen Son (Mã Yên Sơn), nhưng đã nằm ở bên kia biên giới thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Địa danh được chú là Mo Peu là Mã Bá nay là trấn Mã Bạch huyện lỵ của huyện Mã Quan.)
Tổng Tụ-Long tức tổng Phương Độ thời Nguyễn.
Bản đồ khu vực Tụ Long ngày nay.

Toàn bộ vùng mỏ Tụ Long và nửa già phía tây của tỉnh Hà Giang ngày nay (cổ xưa đều là châu Bình Nguyên) được sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam từ thời nhà Lý năm 1015, sau cuộc xung đột biên giới 1013-1015, giữa Đại Cồ Việt với Vương quốc Đại Lý và chư hầu. Năm Ất Mão niên hiệu Thuận Thiên thứ 6 (1015), Lý Thái Tổ ban chiếu chỉ cho Dực Thánh Vương và Vũ Đức Vương đi đánh và thu phục được các châu Đô Kim, Vị Long, Thường Tân, Bình Nguyên và bắt giết được thủ lĩnh Hà Trác Tuấn[5]. Các vùng này hoàn toàn không phải là những lãnh thổ nhà Tống Trung Quốc lúc đó.

Xã Tụ Long tổng Phương Độ thời nhà Lê trung hưng cũng là toàn bộ tổng Tụ Long thời vua Tự Đức nhà Nguyễn nay là đất đai thuộc địa bàn các trấn biên giới thuộc huyện Mã Quan của châu tự trị dân tộc Choang, Miêu Văn Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, (gồm toàn bộ các trấn: Tiểu Bá Tử, Kim Xưởng, Đô Long, Giáp Hàn Thanh, một phần các trấn Mã Bạch, Nam Lao). Đây là vùng đất tranh chấp giữa nhà Lê Việt Nam với nhà Thanh Trung Quốc.

Ngoài ra, vùng mỏ Tụ Long, theo nghĩa mở rộng còn để chỉ vùng đất xung quanh tổng Tụ Long thời Tự Đức, cùng bị Pháp chuyển nhượng cho nhà Thanh sau các Công ước Pháp - Thanh năm 1887 và năm 1895, mà bao gồm cả hai xã xưa có tên là Phấn Vũ và Bình Di của Việt Nam, ngày nay thuộc địa bàn các hương trấn Mãnh Động, Thiên Bảo, Ma Lật và Đại Bình của huyện Ma Lật Pha châu Văn Sơn, đây đều là các hương trấn nằm xung quanh hương Đô Long (都龙, tức xã Tụ Long tổng Tụ Long của Việt Nam thời vua Tự Đức). Đất toàn bộ hương Mãnh Động cùng phần phía đông trấn Thiên Bảo (quanh thôn Thiên Bảo) ngày nay của Trung Quốc, cổ xưa là phần đất xã Phấn Vũ tổng Phương Độ thời nhà Lê, nhà Nguyễn của Việt Nam. Phần còn lại của trấn Thiên Bảo (xung quanh thôn Nam Ôn Hà), cùng phần phía nam trấn Ma Lật và phía nam của trấn Đại Bình ngày nay là đất xã Bình Di tổng Phương Độ của Việt Nam.

Năm 1728, chính quyền nhà Lê-Trịnh của Việt Nam chính thức thương lượng đòi được vùng đất này từ nhà Thanh Trung Quốc, ranh giới được xác định là bờ Bắc sông Đổ Chú (堵呪), bờ Nam sông Đổ Chú thuộc Đại Việt (sông Đổ Chú ngày nay là sông Hưởng Thủy (响水河(大梁子河)) là một nhánh thượng nguồn của Sông Chảy chảy từ huyện Mã Quan châu Văn Sơn dọc theo các trấn Mã Bạch (Mã Quan), Giáp Hàn Thanh, Tiểu Bá Tử, vào huyện Si Ma Cai tỉnh Lào Cai Việt Nam). Theo Lê Quý Đôn: Trôi Hà (tục gọi là sông Chảy), ở bên trái sông Thao, phát nguyên từ phủ Khai Hóa (tên là sông Đổ Chú) Trung Quốc, chảy xuống xứ Hưng Hóa, bên trái là châu Vị Xuyên, bên phải là châu Thủy Vĩ, chảy qua Na Căng, Tâm Phú, Bắc Hà, Thập Độ, Chư Làng đến đồn Bảo Nghĩa. Lại chảy qua Ngòi Bàng, động Ngọc Uyển xã Mai Quan về bên trái. Sông này phát nguyên từ dưới núi Tụ Long và Lão Quân chảy qua ải Bắc Tỉ và hai mỏ Long Sinh, Nam Dương rồi tụ hội ở hạ lưu...[6]

Cương vực xã Tụ Long tổng Phương Độ thời nhà Lê

Địa bàn xã Tụ Long châu Bình Nguyên (từ thời nhà Mạc đổi thành châu Vị Xuyên) phủ Yên Bình xứ Tuyên Quang trên vùng biên giới Đại Việt - Đại Minh 1428-1644, và vùng biên giới Đại Việt - Đại Thanh 1644-1688.

Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn viết: Châu Vị Xuyên tức là châu Bình Nguyên xưa, có 8 tổng 51 xã, duy Tụ Long là to hơn cả: có 24 thôn ấp, tập tục gọi thôn là làng. Địa thế xã này phía đông giáp xã Phấn Vũ (奮武) thuộc bản tổng, phía tây giáp phủ Khai Hóa Trung Quốc, phía nam giáp châu Thủy Vĩ thuộc Hưng Hóa, phía bắc giáp động Ngưu Dương Trung Quốc. Về mặt tây, lấy sông Đổ Chú để chia mốc giới với phủ Khai Hóa: Kể từ đầu ngọn sông, về phía đông ven sông, từ sông Đổ Chú đến làng Thác Ư (托於) giáp châu Thủy Vĩ, thuộc về địa phận Tụ Long. Về phía tây ven sông, từ làng Mã Bạch (馬白, hay Mã Bách 馬伯) đến làng Ma Cả Bô (Ma Cơ Pho) giáp châu Thủy Vĩ, thuộc về địa phận Khai Hóa. Núi Mã Yên (馬鞍山) ở làng Kỵ Mã xã Tụ Long cách xa với Trung Quốc. Một dải sông Đổ Chú chảy qua vụng Mã Bạch, chảy xuôi đến núi Mi (眉山), rồi hợp lưu với con sông nhỏ thuộc trấn Hưng Hóa nước ta, chảy xuống châu Thủy Vĩ. Lại một khe từ núi Mã Gia (馬茄山) chảy ven ngàn núi đến thôn Thác Ư thông với sông Tạ Mộng (謝夢), đây là chỗ nước ở Tụ Long, Hoàng Khê (黄谿), Thổ Khê (土谿) hợp lưu với nhau. Từ con khe này đến sông Đổ Chú cách nhau 150 dặm.[7]

Về sông Lô mà thượng nguồn là giới hạn phía đông của khu vực Tụ Long, Lê Quý Đôn viết: "Sông Cả lại có tên là sông Lô, Minh sử gọi là sông Bình Nguyên, ở về bên trái sông Chảy, phát nguyên từ ti Giáo Hóa trưởng quan tỉnh Vân Nam Trung Quốc, đó là mặt đông nam chảy xuôi đến châu Vị Xuyên (xưa gọi là châu Bình Nguyên) xứ Tuyên Quang, qua sau núi xã Tụ Long, đến phố Than mỏ Bình Di, hợp với ngòi Bán Ca về bên phải, chảy qua phố Ai mỏ Bình Di, hợp với ngòi Trung Bang về bên phải, chảy xuống Bình Quân, Phấn Vũ, Bắc Bảo hợp với cửa ngòi bên phải, chảy qua ải Phương Độ hợp với ngòi Thiểu về bên trái,..."

Tổng số thôn làng Đại Việt thu nạp lại từ nhà Thanh năm 1728 là 17 làng gồm: Nhĩ Hô (爾呼), Mạnh Đinh (孟釘), Phù Ni (扶尼), Phù Li (扶籬), Phù Chu (扶周), Trĩ Giang (豸江), Phù Không (扶空), Ma Hô (痲呼), Bố Ma (布痲), Hô Khâm (呼襟), Mã Khao (馬犒), Tà Lộ (斜路), Yên Mã (鞍馬), Mã Thọ (馬夀), Tụ Kha (聚珂), Thông Sự (通事), và Mã Đề (馬蹄)[8].

Sách Đại Việt địa dư toàn biên, Nguyễn Văn Siêu viết: "Năm Bảo Thái thứ 9 (1728) nhà Thanh trả lại cho ta xưởng mỏ đồng Tụ Long, lấy sông Đổ Chú làm địa giới... Bia đá lập ở địa phận xã Tụ Long huyện Vĩnh Tuy, 2 bờ nam bắc sông đều có bia. Bia bờ nam khắc chữ rằng: "Châu địa giới châu Vị Xuyên, trấn Tuyên Quang, nước An Nam, lấy sông Đổ Chú làm căn cứ. Năm Ung Chính thứ 6 tháng 9 ngày 18, ủy sai lũ Binh bộ thị lang Nguyễn Huy Nhuận, Quốc Tử giám Tế tửu Nguyễn Công Thái phụng chỉ lập bia này." Bia bờ bắc khắc chữ rằng: "Khai Dương xa ở cuối trời, là đất tiếp cõi Giao Chỉ, xét sách vở... lấy sông Đổ Chú cách phía Nam phủ trị 240 dặm làm châu địa giới bị lẫn lộn, nên ủy sai viên tra khám rồi tâu định địa giới ở núi mỏ chì. Hoàng thượng ta... nghĩ Giao Chỉ... kính thuận,... đem 40 dặm đất... ban cho. Lũ Sĩ Côn, thừa lệnh... Tổng đốc Vân Quý, làm hịch... Ngày mùng 7 tháng 9, hội đồng với sai viên của nước Giao Chỉ là lũ Nguyễn Huy Nhuận cộng đồng định nghị, lấy sông nhỏ ở phía nam đồn Mã Bạch làm địa giới, tức là sông mà quốc vương nước ấy gọi là Đổ Chú... dựng đình bia địa giới ở phía bắc sông này. Từ nay cõi ngoài biên vững bền, ức vạn năm.. không... hết. Năm Ung Chính thứ 6 tháng 9, ngày 18, thự Khai Hóa tri phủ thần Ngô Sĩ Côn, thự Khai Hóa trấn Trung dinh... Võ Đảng kính lập bia này"..."[9]

Vùng mỏ Tụ Long - Bình Di - Phấn Vũ của Việt Nam bị Pháp nhượng cho Trung Quốc, nằm giữa khoảng biên giới năm 1728 Đại Việt - Đại Thanh và biên giới Việt Nam - Trung Quốc, ngày nay là toàn bộ vùng lãnh thổ với các địa danh cấp thôn của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, sau:

  • Mã Yên Sơn (马鞍山村) thuộc trấn Mã Bạch huyện Mã Quan, Hướng Dương (向阳村), 02 thôn Nam Lao (南捞村), Na Vãng (那往村) của trấn Nam Lao huyện Mã Quan, 04 thôn Cao Kiển Lương (高笕梁村), A Lão[10][11] (阿老村), Ngõa Tra (瓦渣村), Qua Lệnh (戈令村) của trấn Đại Bình huyện Ma Lật Pha, 05 thôn Nam Âu (南欧村), Mao Thảo Bình (茅草坪村), Xung Đầu (冲头村), Tì Trúc Bá (茨竹坝村), Đậu Thị Điếm (豆豉店村) của trấn Ma Lật. Các địa danh cấp thôn ngày nay nằm ở vị trí dọc theo đoạn biên giới 1728 từ Mã Bạch đến Cao Mã Bạch lần lượt làː Mã Yên Sơn, Hướng Dương (thôn), Nam Lao (thôn), Na Vãng, Cao Kiển Lương, A Lão, Nam Âu, Mao Thảo Bình và Xung Đầu.
  • Toàn bộ 11 thôn của trấn Giáp Hàn Thanh huyện Mã Quanː Giáp Hàn Thanh (夹寒箐村), Thủy Đối Phòng (水碓房村), Thông Tự (通寺村), Bố Đô Lão Trại (布都老寨村), Bá Giáp (坝甲村), Quang Khảm (光坎村), Tân Bảo Trại (新堡寨村), Tiêm Sơn (尖山村), Đạt Bố Tư (达布斯村), Ngưu Mã Lang (牛马榔村), Ma Long (么龙村).
  • Toàn bộ 04 thôn của trấn Tiểu Bá Tử huyện Mã Quanː Tiểu Bá Tử (小坝子村), Bán Pha (半坡村), Kim Trúc Bằng (金竹棚村), Điền Loan (田湾村).
  • Toàn bộ 03 thôn của trấn Kim Xưởng huyện Mã Quanː Kim Xưởng (金厂村), Trung Trại (中寨村), Lão Trại (老寨村).
  • Toàn bộ 08 thôn của trấn Đô Long huyện Mã Quanː Đại Trại (大寨村), Đô Long (都龙村), Kim Trúc Sơn (金竹山村), Bá Bảo (坝保村), Đông Qua Lâm (东瓜林村), Mao Bình (茅坪村), Lạt Tử Trại (辣子寨村), Bảo Lương Nhai (保良街村).
  • Toàn bộ 05 thôn của hương Mãnh Động huyện Ma Lật Phaː Lão Đào Bình (老陶坪村), Bá Tử (坝子村), Côn Lão (昆老村), Mãnh Động (猛硐村), Đồng Tháp (铜塔村).
  • Toàn bộ 06 thôn của trấn Thiên Bảo huyện Ma Lật Phaː Bát Tống (八宋村), Nam Ôn Hà (南温河村), Thành Tử Thượng (城子上村), Tiểu Trại (小寨村) Phân Thủy Lĩnh (分水岭村), Thiên Bảo (天保村).

Châu Vị Xuyên thời Lê trung hưng đến thời Nguyễn độc lập

Châu Vị Xuyên có 8 tổng với 51 xã vào thời Lê trung hưng, sang đầu thời nhà Nguyễn có 9 tổng (52 xã) trong đó:

  • Tổng Phương Độ gồm 6 xã: Tụ Long (đến cuối nhà Nguyễn tách thành tổng riêng cùng tên, nay thuộc Mã Quan Trung Quốc), Phấn Vũ (奮武 hay 粉武[12], nay khoảng hương Mãnh Động, tức Mường Động, huyện Ma Lật Pha Trung Quốc), Phương Độ (芳度, nay khoảng các xã Phương Độ, Phương Thiện, Xín Chải, Thanh Đức, Thanh Thủy), Tùng Bách (松柏), Bạch Ngọc (白玉), Tiểu Miện (小沔).
  • Tổng Phú Linh gồm 4 xã: Bình Di (平夷, nay khoảng các hương trấn Thiên Bảo, Ma Lật huyện Ma Lật Pha Trung Quốc), Phú Linh (富靈), Linh Hồ (靈湖), Đại Miện (大沔).
  • Tổng Gia Tường gồm 5 xã: Gia Tường, Hướng Minh, Hùng Nỗ, Chương Khê, Ngọc Liễn. Trước có thêm 2 xã Đông Mông và Vô Cữu, đã mất về nhà Thanh khoảng những năm 1688. (Đất hai xã Đông Mông, Vô Cữu nay thuộc các hương Dương Vạn (khoảng các thôn Trưởng Điền (长田), Tử Giao (紫胶), Na Đô (哪都), Đồng Xưởng (铜厂)), Bát Bố (khoảng các thôn Bát Bố (八布), Hoang Điền (荒田), Na Đăng (哪灯)), Hạ Kim Xưởng (khoảng các thôn Hạ Kim Xưởng (下金厂), Trung Trại (中寨)) huyện Ma Lật Pha.)
  • Tổng Mục Hà gồm 6 xã: Mục Hà (穆河), An Quảng, Xuân Hồng, Hương Sơn, Nghĩa Phì (義肥), Tiên Kiệu (仙轎).
  • Tổng Tiên An gồm 5 xã: Tiên An (先安), Thượng Lũng (上隴), Vũ Lang, Trịnh Trang, Hữu Bằng (有憑).

Theo Lê Quý Đôn: "Năm Nhâm Dần niên hiệu Bảo Thái thứ 3 (1722), Nguyễn Thành Lý quản cơ Tả trấn trấn thủ Tuyên Quang, với 400 thổ binh dưới quyền, dâng sớ nói: "Địa giới Tụ Long và Bình Di tiếp giáp với nước ngoài, các trường xưởng vàng, bạc, đồng, thiếc đều ở đây cả. Nếu có việc khẩn cấp mà báo với 3 đồn Tĩnh Biên, Hà Giang và Linh Trường, vừa đi vừa về đến hơn mười ngày, e khó lòng ứng tiếp kịp, xin đặt thêm đồn Tụ Long chia lính canh giữ. Số lính chia đi đóng các đồn tổng cộng 2315 người:..., đồn Tụ Long 353 người, 6 viên quan cai quản. Còn các thổ mục Tụ Long là Hoàng Văn Chí, Hoàng Văn Tuy đều có 50 người lính, các thổ mục Bình Di là Hoàng Văn Toán, Hoàng Văn Thụy đều có số lính là 27 người, đều để dùng vào việc tra hỏi kiện tụng."..."[13]

Theo Nguyễn Văn Siêu, sau khi đặt tỉnh Tuyên Quang năm 1831, đến năm Minh Mạng thứ 16 (1835) chia châu Vị Xuyên làm 2 huyện, bên bờ trái sông Lô làm huyện Vị Xuyên thuộc phủ Tương An, bên bờ phải sông Lô làm huyện Vĩnh Tuy vẫn thuộc phủ Yên Bình. Các xã Tụ Long, Phấn Vũ, Phương Độ cùng toàn bộ tổng Phương Độ thuộc huyện Vĩnh Tuy[14].

Theo Nguyễn Đình Đầu, thời Tự Đức (khoảng năm 1861) hành chính huyện Vĩnh Tuy phủ Yên Bình tỉnh Tuyên Quang được phân chia lại theo đó xã Tụ Long được tách ra làm thành tổng riêng thuộc huyện Vĩnh Tuy phủ Yên Bình. Tổng Tụ Long gồm 6 xã: Tụ Long, Tụ Thành (聚成), Tụ Nghĩa (聚義), Tụ Mỹ (聚美), Tụ Hòa (聚和), Tụ Nhân (聚仁). Tổng Tụ Long phía đông nam giáp với tổng Phương Độ lúc này còn 3 xã là: Phương Độ, Bình Di, Phấn Vũ, cũng thuộc về huyện Vĩnh Tuy.[15]

Công ước Pháp Thanh 1887 cắt đất Tụ Long-Phấn Vũ-Bình Di cho Trung Hoa

Biên giới Việt Nam - Trung quốc thay đổi sau các công ước Pháp Thanh, làm Việt Nam mất dần vùng đất Tụ Long.
Tổng Tụ Long thuộc Trung Quốc trong bản đồ Bắc Kỳ năm 1890.

Sau Chiến tranh Pháp-Thanh, Pháp hầu như làm chủ toàn bộ Bắc Kỳ, mặc dù theo hòa ước Quý Mùihòa ước Giáp Thân Pháp phải bảo hộ quyền lợi cho các xứ thuộc địa chiếm được từ Đại Nam (Điều 23 hòa ước Quý Mùi: " Nước Pháp cam kết từ đây sẽ bảo đảm sự hoàn toàn quyển vẹn về lãnh thổ của đất nước Đức vua,..."), nhưng muốn có được sự công nhận của nhà Thanh về cáí thực tế đô hộ An Nam này, Pháp đã đi tới ký kết Công ước Constans 1887 phân chia lại đường biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc.

Nhà Thanh trong vấn đề Bắc Kỳ, dù trước đó có đưa quân tham chiến nhưng sau Hòa ước Thiên Tân 1885 ở thế đứng ngoài mặc cả trục lợi. Đại diện nhà Thanh là Lý Hồng Chương phát biểu với Đô đốc Pháp Henri Rieunier trong hội đàm rằng: "Nước Pháp đã đạt được nhiều quyền lợi khi chiếm được Bắc Kỳ, một nước chư hầu của Trung Hoa 600 năm nay; việc này là nhờ trung gian của tôi. Nó đã gây cho tôi nhiều phiền phức; tôi nghĩ rằng một sự đền bồi dưới dạng nhượng vài vùng đất nhỏ trên vùng biên giới là cần thiết."[16]

Nội dung của Công ước Pháp Thanh 1887 có điều khoản Pháp đồng ý cắt 3/4 đất tổng Tụ Long gồm cả khoảng 4-5 xã trong 6 xã (là Tụ Long, Tụ Thành, Tụ Nghĩa, Tụ Mỹ, Tụ Hòa), cùng xã Bình Di và một phần xã Phấn Vũ thuộc tỉnh Hà Giang của Bắc Kỳ cho tỉnh Vân Nam của Trung Quốc với diện tích khoảng 750 km². Hoạch định lại đoạn biên giới Bắc Kỳ-Trung Hoa, từ Câu Đầu trại (ở phía Tây nơi hợp lưu sông Đỗ Chú với sông Chảy) đến Cao Mã Bạch (ở phía đông, nay thuộc xã Cao Mã Pờ huyện Quản Bạ), vòng xuống phía nam tổng Tụ Long.

Đường biên giới theo công ước Pháp Thanh 1887 đi như sau:

  • Từ điểm hợp lưu của sông Đổ Chú với sông Chảy, phía bờ trái sông, vị trí lúc đó có tên gọi là Câu Đầu trại (拘頭寨), biên giới chạy thẳng theo hướng từ tây sang đông kéo dài khoảng hơn 50 dặm tức khoảng 22 km (hơn 20 km), đến điểm hợp lưu của 2 dòng suối nhỏ chảy từ đông sang (điểm này trên bản đồ thuyết minh cho Công ước được ký hiệu là PQ nằm ở phía tây làng Nam Đan (南丹) có lẽ thuộc xã Tụ Hòa) tạo thành một nhánh bên trái của chi lưu thứ 2 (bên bờ phải) của sông Chảy. Chi lưu thứ 2 này của sông Chảy ngày nay có tên Trung Quốc là Bái Hà (白河). Đoạn biên giới thẳng theo hướng tây-đông dài khoảng hơn 20 km này cắt các xã Tụ Nghĩa (聚義社 (tên Việt Nam)), Tụ Mỹ (聚美社 (tên Việt Nam)) của tổng Tụ Long, và xã Nghĩa Phì (義肥社 (tên Việt Nam)) của tổng Mục Hà, sang cho Trung Quốc. Việt Nam còn giữ lại được ở ngay phía nam đoạn biên giới này xã Hữu Bằng (有憑社 (tên Việt Nam)) của tổng Tiên An.
  • Từ điểm Q biên giới quay ra chạy thẳng theo hướng đông nam thêm khoảng 15 dặm tức khoảng 6 km, đến điểm R ở phía nam làng Nam Đan (có lẽ điểm R nằm trùng trên biên giới ngày nay), rồi từ R chạy theo hướng đông bắc, bao quanh phía bắc rồi phía đông của các làng Man Mỹ (縵美) của xã Tụ Hòa, thôn Mường Động Thượng (猛硐上村), (thôn Mường Động Sơn (猛硐山村), thôn Mường Động Trung (猛硐中村), thôn Mường Động Hạ (猛硐下村) của xã Phấn Vũ (Mường Động là tên Việt Nam của Mãnh Động). Các thôn này sau công ước tạm còn thuộc Việt Nam. Đoạn này cắt làng Nam Đan cho Trung Quốc. Các xã Bình Di, Tụ Long, Tụ Thành nằm xa về phía bắc biên giới cũng thuộc về Trung Quốc.
Biên giới Việt Nam - Trung Quốc khoảng thời điểm năm 1889, giữa các công ước Pháp Thanh 1887 và 1895. (Khu vực Lào Cai-Hà Giang nơi có vùng Tự Long, biên giới chạy thẳng ngang theo hướng đông -tây).

Chú thích nguồn dẫn