We R Who We R
"We R Who We R" là bài hát của nữ nghệ sĩ thu âm người Mỹ Kesha nằm trong EP đầu tiên của cô, Cannibal (2010). Nó được phát hành vào ngày 22 tháng 10 năm 2010 như là đĩa đơn đầu tiên trích từ EP bởi RCA Records. Bài hát được đồng viết lời bởi Kesha và Jacob Kasher Hindlin với những nhà sản xuất của nó Dr. Luke, Benny Blanco và Ammo, đánh dấu sự hợp tác giữa nữ ca sĩ với họ sau thành công từ album phòng thu đầu tay của cô, Animal (2010). Được lấy cảm hứng từ sau khi chứng kiến những tin tức liên quan đến những vụ bắt nạt và dẫn đến tự sát của nhiều thanh niên đồng tính, Kesha đã viết bài hát với hy vọng sẽ trở thành một thánh ca cho cộng đồng LGBT. "We R Who We R" là một bản dance-pop kết hợp với những yếu tố từ techno và electropop mang nội dung đề cập đến việc truyền cảm hứng cho mọi người xung quanh trong việc sống là chính họ, và là một bữa tiệc cho bất cứ ai thường bị người khác mặc định là kỳ quặc hoặc lập dị.
"We R Who We R" | |
---|---|
Bài hát của Kesha từ album Cannibal | |
Mặt B | "Sleazy" |
Phát hành | 22 tháng 10 năm 2010 |
Định dạng | |
Thu âm | 2010 |
Thể loại | Dance-pop |
Thời lượng | 3:24 |
Hãng đĩa | RCA |
Sáng tác |
|
Sản xuất |
|
Video âm nhạc | |
"We R Who We R" trên YouTube |
Sau khi phát hành, "We R Who We R" nhận được những phản ứng đa phần là từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu bắt tai và thông điệp tích cực của nó, đồng thời so sánh với đĩa đơn đầu tay năm 2009 của Kesha "Tik Tok" đối với sự tương đồng về cấu trúc âm nhạc và đĩa đơn năm 2010 của Pink "Raise Your Glass" cho sự tương đồng về ý tưởng liên quan đến nội dung lời bài hát giữa hai tác phẩm. Bài hát cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Úc và Vương quốc Anh, đồng thời lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top 5 ở những thị trường lớn như Canada, Nhật Bản và New Zealand. Tại Hoa Kỳ, "We R Who We R" ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 với hơn 280,000 lượt tải nhạc số, trở thành bài hát thứ 17 trong lịch sử bảng xếp hạng làm được điều này và giúp Kesha đạt được đĩa đơn quán quân thứ hai tại đây.
Video ca nhạc cho "We R Who We R" được đạo diễn bởi Hype Williams và ghi hình tại trung tâm thành phố Los Angeles, trong đó bao gồm những cảnh Kesha vui vẻ suốt đêm với những người bạn của cô trong một buổi tiệc ngầm ở nhiều khu vực khác nhau. Để quảng bá bài hát, nữ ca sĩ đã trình diễn nó trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm Sunrise, The X Factor Australia, giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2010, Dick Clark's New Year's Rockin' Eve năm 2010 và Rock in Rio năm 2011, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của cô. Kể từ khi phát hành, "We R Who We R" đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như The Key of Awesome, Mandy Rain và Woe, Is Me, đồng thời xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và truyền hình, bao gồm 90210, Love/Hate, NCIS và Warehouse 13. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 7 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại.
Danh sách ca khúc
Thành phần thực hiện
- Sáng tác – Kesha Sebert, Joshua Coleman, Lukasz Gottwald, Jacob Kasher Hindlin, Benjamin Levin
- Sản xuất, phụ trách đạo cụ và kỹ thuật – Dr. Luke, Benny Blanco, Ammo
- Hát bè – Rani Hancock, Lukasz Gottwald, Sam Holland, Benjamin Levin, Emily Wright
- Kỹ thuật – Emily Wright, Chris "TEK" O'Ryan, Sam Holland
- Trợ lý kỹ thuật – Tatiana Gottwald, Jeremy Levin
Thông tin được lấy từ ghi chú album Cannibal, Dynamite Cop Music/Where Da Kasz tại BMI.[4]
Xếp hạng
Xếp hạng cuối năm
Bảng xếp hạng (2010) | Vị trí |
---|---|
Australia (ARIA)[33] | 25 |
New Zealand (Recorded Music NZ)[34] | 50 |
South Korea (Gaon International Singles)[35] | 45 |
Sweden (Sverigetopplistan)[36] | 87 |
Bảng xếp hạng (2011) | Vị trí |
Australia (ARIA)[37] | 100 |
Belgium (Ultratop 40 Wallonia)[38] | 90 |
Canada (Canadian Hot 100)[39] | 30 |
UK Singles (Official Charts Company)[40] | 57 |
US Billboard Hot 100[41] | 30 |
US Dance/Mix Show Airplay (Billboard)[42] | 36 |
US Pop Songs (Billboard)[43] | 12 |
US Rhythmic (Billboard)[44] | 37 |
Chứng nhận
Quốc gia | Chứng nhận | Doanh số |
---|---|---|
Úc (ARIA)[45] | 5× Bạch kim | 350.000 |
Ý (FIMI)[46] | Vàng | 15.000* |
México (AMPROFON)[47] | Vàng | 30.000* |
New Zealand (RMNZ)[48] | Bạch kim | 15.000* |
Hàn Quốc (Gaon Chart) | — | 269,601[49] |
Thụy Điển (GLF)[50] | Bạch kim | 20.000 |
Anh Quốc (BPI)[51] | Vàng | 400.000 |
Hoa Kỳ (RIAA)[52] | 5× Bạch kim | 5.000.000 |
* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ. |
Lịch sử phát hành
Khu vực | Ngày | Định dạng |
---|---|---|
Úc[53] | 22 tháng 10 năm 2010 | Tải kĩ thuật số |
Áo[54] | ||
Bỉ[55] | ||
Canada[56] | ||
Đức[57] | ||
Ireland[1] | ||
Ý[58] | ||
Hà Lan[59] | ||
New Zealand[60] | ||
Thụy Điển[61] | ||
Thụy Sĩ[62] | ||
Hoa Kỳ[63] | ||
Đức[2] | 7 tháng 1 năm 2011 | Đĩa CD |
Vương quốc Anh[3] | 23 tháng 1 năm 2011 | Tải kĩ thuật số |