Ái nhi (tiếng Anh: pedophilia hoặc paedophilia) là bản năng hay ham muốn tình dục đối với trẻ em chưa đến tuổi thành niên, thông thường ở dưới tuổi 12.[1][2] Trong chẩn đoán y học, độ tuổi chính xác để tính là ái nhi là ở độ tuổi từ trước dậy thì cho tới 13.[1] Một người được coi là ái nhi phải ở độ tuổi ít nhất là 16, và phải lớn hơn đối tượng bị hại ít nhất 5 tuổi.[1][2]
Trong phân loại DSM,[3] ái nhi thuộc nhóm lệch lạc tình dục, người có biểu hiện ái nhi được gọi là người ái nhi (tiếng Anh: pedophile). Hành vi lạm dụng tình dục trẻ em hay còn gọi là tình dục huyễn nhi, ấu dâm có liên quan đến hiện tượng này. Ngược lại với hiện tượng này là ái lão, khi người bị lệch lạc tình dục hướng đến người già.
Thuật ngữ pedophilia có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: παιδοφιλια, phiên âm: paidofilia, trong đó pais (παις) nghĩa là trẻ em hay bé trai, filia (φιλια) là tình yêu, tình bạn. Thuật ngữ nguyên thủy của Hy Lạp cổ đại này được nhà tâm thần học người Áo Richard von Krafft-Ebing bắt đầu sử dụng trong thuật ngữ tâm thần học "paedophilia erotica"[4] năm 1886.
Trong các lĩnh vực không chuyên môn, nhất là trong truyền thông đại chúng, ái nhi được dùng để chỉ quan hệ tình dục với trẻ em chưa đến tuổi thành niên hoặc các hoạt động liên quan đến phim ảnh kích dục với trẻ em (sản xuất, lưu trữ, phân phối, sử dụng). Vì chưa có định nghĩa thống nhất về ái nhi, việc xác định mức độ tồn tại của hiện tượng này trong xã hội gặp nhiều khó khăn. Các phương pháp điều tra hiện nay đều có những hạn chế nhất định và không thể vượt ra ngoài phạm vi của từng phương pháp.
Trong một vài định nghĩa, ái nhi chỉ bó hẹp trong phạm vi ham muốn tình dục đối với cá nhân chưa có những biểu hiện phát triển tình dục thứ cấp.[5] Nhưng theo những định nghĩa khác (ví dụ Krafft-Ebing), ngoài khoảng tuổi kề cận dậy thì, hiện tượng ái nhi còn hướng vào các cháu ở thời kì chớm dậy thì, trong một ít trường hợp cả các cháu gần hết tuổi dậy thì hay người mới trưởng thành nhưng vẫn còn những nét dáng hoặc cung cách trẻ con. Trẻ mới lớn thường hấp dẫn không chỉ đối với những người ái nhi, mà còn cả đối với những người trong nhóm lệch lạc tình dục với người mới lớn (tiếng Anh: teleiophilia).
Thông thường, khi bản năng ham muốn tình dục của một người, hoàn toàn hay phần lớn, chỉ có đối với trẻ em thì mới coi là hiện tượng ái nhi. Khả năng con người yêu thương trẻ em, được trẻ em lôi cuốn, khả năng cơ quan sinh dục có thể bị trẻ em kích thích ở một giới hạn nhỏ là khả năng của phần đáng kể của con người. Trong quá trình nghiên cứu sự thay đổi thể tích dương vật (tiếng Anh: phallography), số người cảm thấy bị kích thích đối với các tác động "trẻ em" mạnh hơn phản ứng đối với các tác động "người lớn" khoảng vài chục phần trăm,[6] trong khi tỉ lệ này ở nhóm người được coi là ái nhi chỉ vài phần trăm.[7]
Tại Việt Nam, chúng ta thường dùng chung từ "ấu dâm" để chỉ cả những người "ái nhi" và những kẻ phạm tội lạm dụng tình dục trẻ em (tiếng Anh gọi là child molestation). Nhưng theo nhiều ý kiến chuyên gia, cần phân biệt giữa 2 khái niệm này, vì không phải người "ái nhi" nào cũng có những hành vi xâm hại trẻ em. Tức là tội phạm xâm hại tình dục trẻ em được coi ái nhi, nhưng thứ đưa những kẻ này vào tù là hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Nếu không có những hành vi như vậy, những kẻ đó vẫn sẽ là một công dân bình thường, dù tư tưởng có nghĩ gì đi chăng nữa. Giống như việc đàn ông có thể... nghĩ bậy thoải mái về nữ giới, nhưng nếu anh ta không có hành vi cưỡng ép, quấy rối hay làm điều gì đó vi phạm pháp luật, anh ta vẫn sẽ tự do.[8]
|
---|
Rối loạn tâm thần thực thể bao gồm rối loạn tâm thần triệu chứng (F00-F09) | |
---|
Do sử dụng các chất tác động tâm thần (F10-F19) | |
---|
Tâm thần phân liệt, rối loạn loại phân liệt và các rối loạn hoang tưởng (F20-F29) | |
---|
Rối loạn khí sắc (Rối loạn cảm xúc) (F30-F39) | |
---|
Các rối loạn bệnh tâm căn có liên quan đến stress và rối loạn dạng cơ thể (F40-F48) | |
---|
Hội chứng hành vi kết hợp với rối loạn sinh lý và nhân tố cơ thể (F50-F59) | |
---|
Rối loạn nhân cách và hành vi ở người trưởng thành (F60-F69) | |
---|
Chậm phát triển tâm thần (F70-F79) | Chậm phát triển tâm thần |
---|
Rối loạn phát triển tâm lý (F80-F89) | Rối loạn phát triển đặc hiệu | Rối loạn phát âm và ngôn ngữ (Rối loạn ngôn ngữ biểu hiện • Chứng mất ngôn ngữ • Mất khả năng biểu đạt cảm xúc qua ngôn ngữ • Nghe nhưng không hiểu nhiều • Hội chứng Landau-Kleffner, Vong ngôn) • Chứng khó học ( Chứng khó đọc • Chứng khó viết • Hội chứng Gerstmann) • Mất ngôn ngữ vận động (Rối loạn phát triển về phối hợp) |
---|
Rối loạn phát triển lan tỏa | |
---|
|
---|
Rối loạn hành vi và cảm xúc ở trẻ em và thiếu niên (F90-F98) | Rối loạn tăng động giảm chú ý (AHDH) • Rối loạn cư xử (một số nơi gọi là Rối loạn hành vi) • Rối loạn hành vi ở những người còn thích ứng xã hội • Rối loạn lo âu khi xa cách • Câm tùy lúc • Rối loạn gắn bó ở trẻ • Rối loạn Tic • Hội chứng Tourette • Rối loạn khả năng nói ( Nói lắp • Nói lúng búng) • Rối loạn hành vi cảm xúc biệt định khác, thường khởi phát trong tuổi trẻ em và thanh thiếu niên (Rối loạn thiếu sót chú ý không tăng hoạt động • Thủ dâm quá mức • Cắn móng tay • Ngoáy lỗ mũi • Mút móng tay) |
---|