One-hit wonder (tạm dịch: hiện tượng một lần nổi tiếng) là bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào đạt được sự phổ biến chính thống, thường chỉ cho một tác phẩm và được công chúng biết đến chỉ vì thành công nhất thời đó. Thuật ngữ này được sử dụng phổ biến nhất liên quan đến người biểu diễn âm nhạc chỉ với một bản hit duy nhất làm lu mờ công việc khác của họ. Đôi khi, các nghệ sĩ được mệnh danh là "one-hit wonder" ở một quốc gia cụ thể đã có được thành công lớn ở các quốc gia khác. Các nghệ sĩ âm nhạc với các album nổi tiếng và danh sách hit tiếp theo thường không được coi là thành công. One-hit wonder thường thấy mức độ phổ biến của các nghệ sĩ giảm xuống sau khi thành công với tác phẩm cũ và các tác phẩm về sau đều không đạt được thành công.
Tại Việt Nam, nhiều nghệ sĩ nổi tiếng đã bị gắn mác là one-hit wonder khi chỉ thành công với một bài hát duy nhất. Ví dụ như Quách Thành Danh với "Tôi là tôi", Hoà Minzy với "Rời bỏ", Nhật Tinh Anh với "Vầng trăng khóc",...
Trong The Billboard Book of One-Hit Wonders, nhà báo âm nhạc Wayne Jancik định nghĩa one-hit wonder là "một tác phẩm đã giành được một vị trí trong bảng xếp hạng nhạc pop của 40 quốc gia, đạt top 40 chỉ một lần."
Định nghĩa chính thức này có thể bao gồm các sản phẩm có thành công lớn hơn ngoài bản hit duy nhất của họ và những nghệ sĩ không được xem là one-hit wonder, đồng thời loại trừ các nghệ sĩ có nhiều bản hit bị lu mờ bởi một bài hát thương hiệu của họ,[1] hoặc những bài hát đó những người biểu diễn chưa bao giờ lọt vào top 40, nhưng lại khá phổ biến ngoài cộng đồng (thuật ngữ này được gọi là "hit turntable" hoặc một bài hát không đủ điều kiện cho các bảng xếp hạng top 40). One-hit wonder thường độc quyền cho một thị trường cụ thể, một quốc gia hoặc một thể loại; người biểu diễn có thể có một one-hit wonder trong một lĩnh vực như vậy.
Năm 2002, mạng cáp VH1 của Mỹ đã phát sóng đếm ngược 100 one-hit wonder vĩ đại nhất của VH1, do William Shatner tổ chức.[cần dẫn nguồn]
Top 10 bao gồm:
Một cuộc thăm dò truyền hình năm 2006, do Channel 4 ở Anh thực hiện đã yêu cầu người xem chọn one-hit wonder yêu thích của họ từ danh sách rút gọn gồm 60 bài hát. Những người được hỏi cũng có thể bỏ phiếu qua mail để bình chọn một bài hát khác không có trong danh sánh. Top 10 là:[cần dẫn nguồn]
Năm 2006, series truyền hình của Úc 20 to 1 phát sóng tập 20 to 1: One Hit Wonders, một danh sách các bài hát mà trở thành tác phẩm thành công duy nhất của nghệ sĩ đó có thành công tại Úc.
# | Tiêu đề | Biểu diễn |
---|---|---|
20 | "Tainted Love" | Soft Cell |
19 | "Mambo No. 5 (A Little Bit of...)" | Lou Bega |
18 | "Venus" | Shocking Blue |
17 | "Achy Breaky Heart" | Billy Ray Cyrus |
16 | "Mickey" | Toni Basil |
15 | "I'll Be Gone" | Spectrum |
14 | "Tubthumping" | Chumbawamba |
13 | "Counting the Beat" | The Swingers |
12 | "Slice of Heaven" | Dave Dulkn và Herbs |
11 | "Rockin' Robin" | Bobby Day |
10 | "Pass the Dutchie" | Musical Youth |
9 | "Don't Worry, Be Happy" | Bobby McFerrin |
8 | "99 Luftballons" | Nena |
7 | "Spirit in the Sky" | Norman Greenbaum |
6 | "Come on Eileen" | Dexys Midnight Runners |
5 | "Funkytown" | Lipps Inc. |
4 | "Turning Japanese" | The Vapors |
3 | "Video Killed the Radio Star" | The Buggles |
2 | "Born to Be Alive" | Patrick Hernandez |
1 | "My Sharona" | The Knack |
Vào tháng 9 năm 2006, kênh âm nhạc của New Zealand, C4, đã phát sóng một tập phim dành riêng cho "One Hit Wonderers" trên chương trình biểu đồ dựa trên chủ đề hàng tuần, UChoose40, trong đó bảng xếp hạng được xếp hạng hoàn toàn theo lượt bình chọn của người xem từ trang web.[2][3]
Mười thứ hạng hàng đầu như sau:
Deutsche Grammophon và Vox Records đều đã phát hành album của những one-hit wonder cổ điển. Nhiều tác phẩm trong CD là của các nhà soạn nhạc có hai hoặc nhiều tác phẩm phổ biến trong giới âm nhạc cổ điển, nhưng có một tác phẩm đã trở nên phổ biến bên ngoài. Hai đĩa CD khác nhau, nhưng các tác phẩm chung cho cả hai là:
Ví dụ khác về cổ điển kỳ một hit là Léo Delibes 's " The Flower Duet ", Vittorio Monti ' s Csárdás, Enrico Toselli 's Serenata 'Rimpianto' Op.6 số 1, thường được gọi là "Serenade Toselli của", và Jean Plaisir thôi của Paul Egide Martini.
Thuật ngữ one-hit wonder đôi khi được áp dụng cho các phương tiện truyền thông khác.
Trong thể thao thế giới, có một số vận động viên được người hâm mộ thể thao biết đến từ một sự kiện trong sự nghiệp của họ. Những ví dụ bao gồm
Trong phi tiêu, cũng có một số người chơi chỉ có một thành công rất ngắn.
Thuật ngữ "cup of coffee" được sử dụng để mô tả một cầu thủ bóng chày hoặc khúc côn cầu trên băng chỉ có một khoảng thời gian ngắn (nghĩa là đủ lâu để uống một tách cà phê và không làm gì khác) trong Giải bóng chày Major League hoặc Giải khúc côn cầu quốc gia tương ứng và sau đó dành phần còn lại của sự nghiệp của họ trong các giải đấu nhỏ.