Thành tích tốt nhất của anh trước khi trở thành nhà vô địch thế giới là chức vô địch châu Á năm 1998[3], hạng nhì thanh niên thế giới năm 1999[4], vô địch tại Essen năm 2001, vô địch Pamplona 2002 (thắng playoff cờ chớp trước Victor Bologan sau khi cả hai cùng kết thúc giải với 3½ điểm /6 ván), vô địch với 8 điểm / 9 ván tại Vlissingen Open năm 2003, đồng vô địch với Liviu-Dieter Nisipeanu với 6 điểm / 9 ván tại Pune năm 2005, huy chương đồng (9½ điểm / 12 ván) bàn một tại Olympiad cờ vua 2000 và á quân Cúp cờ vua thế giới năm 2002 (thua Viswanathan Anand ở chung kết). Anh cũng từng tham dự giải đấu danh giá Wijk aan Zee hai lần vào năm 1999 và 2002, tuy nhiên không đạt kết quả tốt.
Tại trận đấu 6 ván, hai đấu thủ đều thắng hai ván, do vậy phải đánh tiếp cờ nhanh phân định thắng thua. Kasimdzhanov thắng ván đầu dù cầm đen sau khi trải qua một hình cờ khó khăn. Ở ván thứ hai anh hòa và trở thành nhà vô địch FIDE mới.
Ngôi vô địch năm 2004 giúp Kasimdzhanov được mời tham dự Giải vô địch cờ vua thế giới FIDE 2005, gồm 8 kỳ thủ đánh vòng tròn hai lượt. Anh xếp đồng hạng 6–7.
Tiếp theo, anh cũng được vào thẳng vòng ứng viên của Giải vô địch cờ vua thế giới 2007, gồm 16 kỳ thủ đánh loại trực tiếp. Tuy nhiên anh bị loại ngay vòng đầu.
Kasimdzhanov lần đầu có mặt tại giải Linares năm 2005, tuy nhiên xếp cuối bảng. Năm 2006, Kasimdzhanov thắng giải đấu kiện tướng Corsica bằng đánh loại trực tiếp[5]. Năm 2010, anh vô địch nội dung cờ nhanh nam ở Đại hội Thể thao châu Á 2010. Trong thời gian gần đây, anh luôn duy trì được mức Elo quanh 2700.