Ba Kim

Ba Kim (tiếng Trung: 巴金; bính âm: Bā Jīn; 25 tháng 11 năm 1904 tại Thành Đô, Tứ Xuyên - 17 tháng 10 năm 2005 tại Thượng Hải) là một nhà văn, tiểu thuyết gia, dịch giả và người theo chủ nghĩa vô trị người Trung Quốc.[2][3]

Ba Kim
巴金
Ba Kim năm 1938
Ba Kim năm 1938
SinhLý Nghiêu Đường
(1904-11-25)25 tháng 11 năm 1904
Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc
Mất17 tháng 10 năm 2005(2005-10-17) (100 tuổi)
Thượng Hải, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Bút danhBa Kim
Nghề nghiệpTiểu thuyết gia
Tác phẩm nổi bậtGia đình, Mùa xuân, Mùa thu.
Giải thưởng nổi bật1983: Bắc Đẩu Bội Tinh
1990: Giải thưởng Fukuoka (Giải đặc biệt)
Phối ngẫu
Tiêu San
(cưới 1936⁠–⁠1972)
[1]
Con cáiLý Tiểu Đường
Lý Tiểu Lâm
Ba Kim
Tiếng Trung巴金
Tên tiếng Trung thay thế
Phồn thể李堯棠
Giản thể李尧棠

Tiểu sử

Ba Kim tên thật là Lý Nghiêu Đường, sinh ngày 25 tháng 11 năm 1904 tại Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc.[1] Năm 1920 ông ghi danh học tại Trường Ngoại ngữ Thành Đô để học tiếng Anh,[4] đến năm 1923 thì ông chuyển đến Thượng Hải sau đó đến Đại học Đông Nam, Nam Kinh với lý do học tập nhưng chủ yếu là để thoát khỏi ảnh hưởng phong kiến của gia đình.[5][6][7]

Năm 1927, ông sang Pháp du học, tại đây ông đã xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay Diệt vong dưới bút danh Ba Kim.[8][9] Năm 1934, sau khi đọc vở kịch "Lôi vũ", ông rất khâm phục tài năng sáng tác của Tào Ngu và hai người bắt đầu quen biết nhau từ đó. Ông cũng quen thân với những nhà văn nổi tiếng Băng Tâm và Tiêu Càn. Nhà văn lớn Lỗ Tấn đã ca ngợi Ba Kim là "Một nhà văn có nhiệt tình, có tư tưởng tiến bộ; một trong số ít nhà văn tốt có thể đếm được trên đầu ngón tay".[10] Trong thời gian này, Ba Kim còn đảm nhiệm chức vụ Tổng biên tập Nhà xuất bản Đời sống văn hoá, làm chủ biên một loạt sách như "Văn quý nguyệt san", "Văn học tùng san".[11]

Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời năm 1950 ông giữ chức Phó chủ tịch Liên đoàn Văn học và Nghệ thuật Thượng Hải, ngày 28 tháng 7 cùng năm, con trai Lý Tiểu Đường của ông ra đời.[4][12][13] Khoảng thời gian sau đó Ba Kim hăng hái đi sâu vào cuộc sống để sáng tác văn chương, ông đến hầm mỏ, công trường, nhà máy để tìm hiểu đời sống của công nhân và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của họ trong tác phẩm của mình. Đầu những năm 50, ông hai lần đến Triều Tiên và nhiều lần ra nước ngoài giao lưu văn hóa.[13]

Tháng 7 năm 1957, Ba Kim và Cận Dĩ chủ trì ấn phẩm ấn phẩm văn học quy mô lớn Thu hoạch đồng thời giữ chức vụ chủ biên. Tháng 8 năm 1960, ông được bầu làm phó chủ tịch Liên đoàn Văn học và Nghệ thuật Trung Quốc.[12] Tháng 8 năm 1966 sau khi bị chỉ trích bởi "Tạo phản phái" thuộc Hiệp hội Nhà văn Thượng Hải, ông bắt đầu cuộc sống lao động khổ sai và bị nhốt vào chuồng bò.[14] Ngày 13 tháng 8 năm 1972, vợ ông Tiêu San qua đời vì bệnh ung thư trực tràng ở tuổi 55.[14][15]

Khoảng thời gian trước khi xảy ra Cách mạng văn hóa là thời gian Ba Kim sáng tác nhiều nhất, thể loại chủ yếu của ông là tản văn phản ánh sinh động công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa trên đất nước Trung Hoa mới, có thể kể tới như Ngày Tết của Hoa Sa, Chiến sĩ kiên cường, Những ngày đầy vui vẻ, Tân thanh tập, Hữu nghị tập, Bên bờ cầu Hiền Lương.. Trong số này, tác phẩm Bên bờ cầu Hiền Lương là một tập tản văn Ba Kim viết sau chuyến đi thăm Việt Nam, tác phẩm nói lên cảm tình đặc biệt của nhân dân Trung Quốc với cuộc đấu tranh thống nhất đất nước và xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội của nhân dân Việt Nam.[16] Từ năm 1978 trở đi, Ba Kim bước vào giai đoạn sáng tác mới. Năm 1979 ông sang Pháp và có sự nhận thức về vị trí của văn học đương đại Trung Quốc đối với thế giới. Về nước, ông tích cực đề nghị nhà nước xây thư viện bảo quản những tác phẩm văn học hiện đại Trung Quốc.[17]

Tính đến tháng 3 năm 1983, Ba Kim liên tục 5 lần được bầu làm phó chủ tịch hội nghị chính trị toàn quốc, tại vị trong 22 năm.[17] Vào tháng 5 năm 1984, ông được Tổ chức Văn bút Quốc tế lần thứ 47 tổ chức tại Tokyo, Nhật Bản vinh danh là một trong "Bảy danh nhân văn hóa trên thế giới".[17] Tháng 12 cùng năm ông được bầu làm chủ tịch Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc và phục vụ trong 21 năm cho đến khi qua đời do sốt cao và suy hô hấp cấp do nhiễm trùng đường hô hấp.[18]

Ngày 25 tháng 11 năm 2003, Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã trao tặng Ba Kim danh hiệu danh dự "Nhà văn nhân dân".[19]

Tác phẩm

Tiểu thuyết
Năm xuất bảnTên tiểu thuyếtGhi chú
1931NhàBộ 3 Kích lưu
1938Xuân
1940Thu
1931Sương mùBộ 3 Tình yêu
1933Mưa
1935Tia chớp
1940-1945LửaBa tập
1947Đêm lạnh
1932Biển mộng
1932Mùa xuân trong mùa thu
1929Diệt vong
1931Mặt trời chết chóc
1933Sa đinhTên khác "Tuyết"
1933Tân sinh
1940Lợi na
1944Khế viên
1946Phòng bệnh thứ tư
Truyện ngắn
Năm xuất bảnTên truyện ngắnGhi chú
1953Anh hùng cố sự
1957Minh châu cùng Ngọc Cơ
1931Báo thù
1932Quang minh
1933Ghế điện
1933Khăn lau
1934Tướng quân
1935Thần · Quỷ · Người
1936ChìmTên khác "Lưu lạc"
1936Phát đích cố sự
1937Lôi
1942Hoàn hồn thảo
1943Tiểu nhân tiểu sự
1959Heo cùng gà
1961Lý Đại Hải
Tản văn
Năm xuất bảnTên tác phẩmGhi chú
1979-1986Tùy tưởng lục5 quyển
1932Hải hànhTên khác hải hành tạp ký
1934Lữ đồ tùy bút
1935Một chút
1936Sinh chi sám hối
1937Thư ngắn
1937Khống tố
1938Mộng cùng say
1939Cảm tưởng
1939Đất đen
1941Rồng · Hổ · Chó
1941Vô đề
1942Phế viên ngoại
1946Lữ đồ tạp ký
1947Hoài niệm
1948Đêm yên tĩnh bi kịch
1951Nạp Túy giết nhân công nhà máy - áo tư uy tân
1951Ngày tết của hoa sa - ba lan tạp ký
1951Thăm hỏi thư cùng với hắn
1953Sinh hoạt nhà in tại anh hùng môn trung gian
1957Đại hoan nhạc đích nhật tử
1957Chiến sĩ kiên cường
1959Hữu nghị tập
1960Bài hát ca tụng tập
1963Thổ lộ không hết tình cảm
1964Bên bờ cầu Hiền lương
1965Đại trại hành
1979Yên hỏa tập
1982Tự bạt tập
1982Ức niệm tập
1984Nguyện hóa thành bùn đất
1985Khống tố tập
1986Mười năm một giấc chiêm bao
1995Tái tư lục
Hồi ký / học thuyết
Năm xuất bảnTên tác phẩmGhi chú
1934Ba kim tự truyện
1936Ức
1978-1986Tùy tưởng lục
1927Chủ nghĩa vô chính phủ cùng vấn đề thực tế
1930Từ chủ nghĩa tư bản đến chủ nghĩa vô chính phủ
1955Đàm khế hà phu

Tham khảo