Evgenia Armanovna Medvedeva

Vận động viên trượt băng nghệ thuật Nga
(Đổi hướng từ Evgenia Medvedeva)

Evgenia Armanovna Medvedeva (cách viết thay thế: Yevgenia Medvedeva[9]; Nga: Евгения Армановна Медведева, IPA: [jɪvˈɡʲenʲɪjə mʲɪˈdvʲedʲɪvə]; sinh ngày 9 tháng 12 năm 1999), là một cựu vận động viên trượt băng nghệ thuật người Nga. Cô đã hai lần giành được huy chương bạc tại Thế vận hội Olympic mùa đông (Đơn nữ năm 2018, Đồng đội năm 2018), hai lần vô địch giải thế giới (2016, 2017), hai lần vô địch giải châu Âu (2016, 2017), hai lần quán quân Chung kết Grand Prix (2015, 2016), hai lần vô địch giải quốc gia Nga (2016, 2017), ngoài ra cô còn giành huy chương bạc tại Giải vô địch Châu Âu 2018 và đồng tại Giải Thế giới 2019. Trước đó, cô đã vô địch tại Giải vô địch Thiếu niên thế giới 2015, Chung kết Grand Prix Thiếu niên 2014–15, và giải Thiếu niên quốc gia Nga.[10]

Evgenia Medvedeva
Thông tin cá nhân
Tên gốcЕвгения Армановна Медведева
Tên đầy đủEvgenia Armanovna Medvedeva
Tên khácYevgeniya Medvedeva
Evgenia Babasyan
Evgenia Medvedeva-Babasyan
Zhenya
Đại diện cho quốc gia Nga
SinhEvgenia Armanovna Babasyan
19 tháng 11, 1999 (24 tuổi)
Moskva, Nga
Quê nhàMoskva, Nga
Nơi cư trúMoskva, Nga
Cao1.59 m
Huấn luyện viên
  • Eteri Tutberidze
  • Sergei Dudakov
  • Daniil Gleikhengauz
Huấn luyện viên trước đây
Biên đạo múa
  • Shae-Lynn Bourne
  • Jeffrey Buttle
  • Eteri Tutberidze
Biên đạo múa trước đây
  • Misha Ge
  • David Wilson
  • Sandra Bezic
  • Alexander Zhulin
  • Igor Strelkin
  • Ilya Averbukh
Câu lạc bộ trượt băng nghệ thuậtSambo-70
Địa‎‎ ‎‎điểm đào tạo‎‎Moskva, Russia
‎Địa‎‎ ‎‎điểm đào tạo‎‎ ‎trước đâyToronto, Ontario, Canada
Bắt đầu trượt băng từ2004
Giải nghệNgày 1, tháng 12, năm 2021
‎Bảng xếp hạng thế giới‎
  • 13 (tính đến ngày 18 tháng 9, năm 2020)[1]
  • 5 (2019–20)
  • 3 (2018–19)
  • 2 (2017–18)
  • 1 (2016–17)
  • 6 (2015–16)
  • 23 (2014–15)
  • 61 (2013–14)
‎Điểm cao nhất mùa giải‎
  • 6 (2019–20)[2]
  • 6 (2018–19)[3]
  • 2 (2017–18)[4]
  • 1 (2016–17)[5]
  • 1 (2015–16)[6]
  • 5 (2014–15)[7]
  • 17 (2013–14)[8]
Điểm cá nhân tốt nhất do ISU chấm
Điểm tổng241.31
Giải trượt băng nghệ thuật đồng đội thế giới ISU 2017
Bài thi ngắn81.61
Trượt băng nghệ thuật tại Thế vận hội Mùa đông 2018 - Đơn nữ
Bài thi tự do160.46
Giải trượt băng nghệ thuật đồng đội thế giới ISU 2017
Thành tích huy chương
Trượt băng nghệ thuật đơn nữ
Đại diện cho  Nga
and  Vận động viên Olympic từ Nga
Sự kiện123
Thế vận hội Olympic020
Giải vô địch thế giới201
Giải đồng đội thế giới010
Giải vô địch châu Âu210
Chung kết Grand Prix200
Thiếu niên thế giới101
Chung kết Grand Prix Thiếu niên101
Tổngl843
Đại diện cho
 Vận động viên Olympic từ Nga
Thế vận hội Mùa đông
Huy chương bạc – vị trí thứ hai2018 PyeongchangĐồng đội
Huy chương bạc – vị trí thứ hai2018 PyeongchangĐơn nữ
Đại diện cho  Nga
Giải vô địch thế giới
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất2016 BostonĐơn nữ
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất2017 HelsinkiĐơn nữ
Huy chương đồng – vị trí thứ ba2019 SaitamaĐơn nữ
Giải vô địch châu Âu
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất2016 BratislavaĐơn nữ
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất2017 OstravaĐơn nữ
Huy chương bạc – vị trí thứ hai2018 MoscowĐơn nữ
Chung kết Grand Prix
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất2015–16 BarcelonaĐơn nữ
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất2016–17 MarseilleĐơn nữ
Giải đồng đội thế giới
Huy chương bạc – vị trí thứ hai2017 TokyoĐồng đội
Thiếu niên thế giới
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất2015 TallinnĐơn nữ
Huy chương đồng – vị trí thứ ba2014 SofiaĐơn nữ
Chung kết Grand Prix Thiếu niên
Huy chương vàng – vị trí thứ nhất2014–15 BarcelonaĐơn nữ
Huy chương đồng – vị trí thứ ba2013–14 FukuokaĐơn nữ

Medvedeva là nữ vận động viên vô địch Giải thế giới cấp độ trưởng thành ngay sau năm vô địch Giải thế giới cấp độ thiếu niên,[11] là nữ vận động viên vô địch Giải thế giới cấp độ trưởng thành liên tiếp hai lần ngay sau năm vô địch Giải thế giới cấp độ thiếu niên. Tại Giải vô địch thế giới 2017, cô trở thành nữ vận động viên vô địch hai năm liên tiếp sau 16 năm sau thành tích của Michelle Kwan vào năm 2000 và 2001, và là nữ vận động viên Nga đầu tiên bảo vệ thành công tấm huy chương vàng tại Giải vô địch thế giới.[12] Cô là một trong bốn nữ vận động viên đã đạt được thành tích Grand Slam (vô địch mọi giải thi chính trong cùng một mùa), và là vận động viên đầu tiên (ở tất cả các hạng mục) đạt được thành tích Grand Slams trong hai mùa giải liên tiếp (2015–2016; 2016–2017).

Trong hệ thống chấm điểm của ISU, cô đã phá kỷ lục thế giới tới 13 lần và là nữ vận động viên đầu tiên vượt qua số điểm 80 trong bài thi ngắn, 160 điểm trong bài thi tự do, và 230 điểm và 240 điểm tổng.

Thiếu thời và đời sống riêng tư

Mẹ của Evgenia, Zhanna Medvedeva[13] (họ thời con gái — Devyatova[14]), là một cựu vận động viên trượt băng nghệ thuật người Nga đã giải nghệ năm 14 tuổi,[15] và cha là Arman Babasyan, một doanh nhân người Armenia,[16][17] đã ly dị.[18] Cả cha mẹ đều muốn cô tập trượt băng để cải thiện hình thể.[18] Cô thi đấu dưới họ Medvedeva, họ thời con gái của bà ngoại. Họ khai sinh của cô là Babasyan.[19][20] Năm 2017, cô nhập học Đại học Thể dục Thể chất, Tuổi trẻ và Du lịch Nga.[21] Từ ngày 1 tháng 10 năm 2021, cô là sinh viên trường Đại học Quốc gia Moskva.[22]

Medvedeva xác nhận rằng cô mắc chứng sợ bướm nhậy.[cần dẫn nguồn] Thần tượng trượt băng nghệ thuật của cô là Evgeni Plushenko và Yuna Kim.[23] Bạn bè còn gọi cô với tên gọi "Zhenya" và "Janny". Ngoài tiếng Nga, Evgenia còn nói tiếng Anh và tiếng Nhật cơ bản.

Cô chuyển tới Toronto, Canada giữa năm 2018 và luyện tập tại Câu lạc bộ Cricket, Bi đá và Trượt băng Toronto cho tới năm 2020 khi cô quay lại với huấn luyện viên cũ của mình, Eteri Tutberidze.[24]

Cô có hai con Chó bò Pháp, Jerry và Tofu.

Sự nghiệp

Những năm đầu

Bắt đầu trượt từ năm ba tuổi, ban đầu Medvedeva được huấn luyện bởi Elena Proskurina, Lubov Yakovleva, và Elena Selivanova.[18] Khoảng năm 2007, em theo học huấn luyện viên Eteri Tutberidze tại trường đào tạo thể thao Olympic số 37, sau đổi thành Sambo 70.[18]

Medvedeva bắt đầu thi giải trưởng thành tại giải quốc gia Nga 2012, xếp thứ tám chung cuộc, và thứ sáu tại cấp độ thiếu niên. Em gặp chấn thương ở đầu mùa giải tiếp theo và không đủ điều kiện tham dự giải quốc gia Nga ở cấp độ trưởng thành. Em về vị trí thứ tư sau Maria Sotskova tại giải Thiếu niên quốc gia Nga 2013.

Mùa giải 2013–2014: Chuyển lên cấp độ thiếu niên tại đấu trường quốc tế

Medvedeva trên bục huy chương tại Giải vô địch thiếu niên thế giới 2014

Medvedeva bắt đầu thi các giải vô địch cấp độ thiếu niên quốc tế vào mùa giải 2013-14. Thi đấu tại Hệ thống giải Grand Prix Thiếu niên, em giành huy chương vàng ở Riga, Latvia, rồi tại Gdańsk, Ba Lan,[10] qua đó đủ điểm tiến vào Chung kết Grand Prix Thiếu niên được tổ chức tại Fukuoka, Nhật Bản. Em giành được huy chương đồng và xếp sau Sotskova và Serafima Sakhanovich. Tại giải quốc gia Nga 2014, em xếp thứ bảy tại lần thi cấp độ trưởng thành thứ hai của mình và thứ tư ở cấp độ thiếu niên. Medvedeva được cử đi thay thế tại Giải vô địch thiếu niên thế giới 2014 tại Sofia, Bulgaria sau khi Sotskova gặp chấn thương.[25] Đứng thứ ba ở cả hai bài thi, em đoạt huy chương đồng còn Elena Radionova và Sakhanovich lần lượt giành được huy chương vàng và bạc, giúp Nga hai năm liên tiếp giành được toàn bộ huy chương ở hạng mục đơn nữ.

Mùa giảỉ 2014-15: Quán quân Giải Thiếu niên thế giới

Medvedeva (giữa) với Serafima Sakhanovich (trái) và Wakaba Higuchi (phải) trên bục huy chương tại Chung kết Grand Prix Thiếu niên 2014-15

Giải đấu Grand Prix Thiếu niên đầu tiên của Medvedeva được tổ chức tại Courchevel, Pháp. Tại đây, em đã thắng huy chương vàng với cách biệt 21 điểm với huy chương bạc Rin Nitaya của Nhật Bản. Tại giải đấu thứ hai diễn ra ở Ostrava, Cộng hòa Séc, em đứng thứ hai ở cả hai bài thi và chiến thắng Wakaba Higuchi của Nhật Bản với điểm tổng hơn 1.44 điểm. Em đủ điểm tham gia Chung kết Grand Prix Thiếu niên tại Barcelona, Tây Ban Nha, và giành chức quán quân sau khi dẫn đầu ở cả hai bài thi của mình.

Thi đấu tại giải quốc gia Nga 2015, em đứng thứ ba ở cả hai bài thi và giành huy chương đồng, huy chương đầu tiên của em tại cấp độ trưởng thành, xếp sau Elena Radionova và Elizaveta Tuktamysheva. Sau đó em vô địch giải Thiếu niên quốc gia Nga 2015 với hơn 20 điểm trước Maria Sotskova.

Tại Giải vô địch Thiếu niên thế giới 2015 diễn ra ở Tallinn, Estonia, Medvedeva đứng thứ nhất sau bài thi ngắn và phá kỷ lục thế giới với số điểm 68.48, cao hơn bất kỳ số điểm trong bài thi ngắn cấp độ thiếu niên ở hạng mục đơn nữ nào. Ở bài thi tự do, em một lần nữa đứng thứ nhất và giành chức vô địch. Xuyên suốt mùa giải, em không phạm phải bất kỳ cú ngã nào trên đấu trường quốc tế.

Mùa giải 2015-16: Danh hiệu tại Giải thế giới và châu Âu

Tới mùa giải 2015–2016, Medvedeva đã đủ tuổi quy định để tham gia các giải đấu trưởng thành ở đấu trường quốc tế. Cô bắt đầu mùa giải với huy chương vàng tại Cúp Ondrej Nepela 2015, một giải đấu thuộc Hệ thống giải Challenger trực thuộc ISU (CS) vào đầu tháng Mười. Cùng tháng đó, cô thi đấu tại giải đấu Grand Prix cấp độ trưởng thành đầu tiên của mình – Skate America 2015. Xếp thứ nhất sau bài thi ngắn và thứ hai sau bài thi tự do, cô giành huy chương vàng trước Gracie Gold của đội tuyển Mỹ. Medvedeva thắng huy chương bạc tại giải thi Grand Prix tiếp theo, Cúp Rostelecom 2015, sau đồng hương của mình là Elena Radionova.

Medvedeva trên bục huy chương tại Chung kêt Grand Prix 2015-16

Vào tháng Mười hai, tại Chung kết Grand Prix diễn ra tại Barcelona, Tây Ban Nha, Medvedeva xếp nhất ở cả hai bài thi để giành chức vô địch trước Satoko Miyahara và trở thành quán quân Grand Prix trẻ nhất thứ năm trong lịch sử ở tuổi 16.[26][27] Cuối tháng, cô vô địch giải quốc gia Nga 2016, vượt qua Elena Radionova, người đứng ở vị trí thứ hai.

Tháng Một năm 2016, Medvedeva thi đấu tại giải đấu ISU cấp độ trưởng thành đầu tiên của mình, Giải vô địch châu Âu 2016 được tổ chức ở Bratislava, Slovakia. Dẫn đầu ở cả hai bài thi, cô giành được huy chương vàng trong khi Elena Radionova (thấp hơn 5.46 điểm) và Anna Pogorilaya (thấp hơn 28.40 điểm) thắng lần lượt huy chương bạc và đồng, giúp Nga hai năm liên tiếp giành được toàn bộ huy chương ở hạng mục đơn nữ.[28][29]

Medvedeva (giữa) với Ashley Wagner (trái) và Anna Pogorilaya (phải) trên bục huy chương tại Giải vô địch thế giới 2016

Tháng Ba năm 2016, Medvedeva vô địch Giải thế giới tổ chức ở Boston, Mỹ. Sau khi xếp thứ ba ở bài thi ngắn, Medvedeva vươn lên vị trí thứ nhất tại bài thi tự do với điểm số kỷ lục thế giới là 150.10, phá kỷ lục của Yuna Kim trước đó là 150.06 điểm.[30] Với điểm tổng là 223.86, cô đạt được số điểm cao nhất trong sự nghiệp và cao hơn 8.47 điểm so với á quân Ashley Wagner. Với huy chương vàng tại Giải thiếu niên 2015, Medvedeva, mới chỉ 16 tuổi đã trở thành nữ vận động viên đầu tiên thắng liên tiếp Giải thiếu niên và Giải trưởng thành thế giới. Cô đạt được kỷ lục trở thành nữ vận động viên vô địch thế giới ngay trong mùa giải trưởng thành của mình sau người đầu tiên là Kimmie Meissner trong 23 năm, và là nhà vô địch trẻ tuổi nhất (16 tuổi, 4 tháng) dưới luật mới (kể từ Tara Lipinski năm 1997, chưa tròn 15 tuổi vào thời điểm vô địch).[31] Medvedeva cũng trở thành nữ vận động viên thứ hai thắng Chung kết Grand Prix, Giải vô địch quốc gia, Giải vô địch châu Âu và Giải vô địch thế giới ngay trong cùng một mùa giải (người đầu tiên là đồng hương Irina Slutskaya).[32][33]

Medvedeva xếp thứ nhất ở cả hai bài thi tại Cúp Đồng đội 2016 tại Spokane, Washington.[34] Đội châu Âu đứng ở vị trí thứ ba sau cuộc thi mặt-đối-mặt và thứ hai tại bài thi chính. Ngoài huy chương đồng đội, Medvedeva còn nhận được tiền thưởng cho số điểm đơn nữ cao nhất.[35]

Mùa giải 2016–2017: Tám kỷ lục thế giới và danh hiệu Giải thế giới thứ hai

Medvedeva băt đầu mùa giải Grand Prix tại Skate Canada International 2016. Đứng thứ nhất ở cả hai bài thi, cô đoạt huy chương vàng trước Kaetlyn Osmond và Satoko Miyahara. Sau đó, cô đạt được danh hiệu Grand Prix thứ hai của mình, một huy chương vàng tại Cúp Pháp 2016. Cô đạt tới 78.52 điểm trong bài thứ ngắn, chỉ thấp hơn 0.14 điểm so với kỷ lục thế giới bấy giờ nắm giữ bởi Mao Asada. Cô đạt được 15 điểm cho mỗi giải đấu và đủ điều kiện để tham dự Chung kết Grand Prix với số điểm tuyệt đối.

Medvedeva (giữa) với Satoko Miyahara (trái) and Anna Pogorilaya (phải) trên bục huy chương tại Chung kêt Grand Prix 2016-17

Tại vòng chung kết được tổ chức tại Marseille, Pháp, Medvedeva phá vỡ kỷ lục thế giới của Mao Asada với số điểm là 79.21. Cô cũng vô địch với số điểm hơn 9.33 điểm so với á quân Satoko Miyahara.[36]Với chiến thắng của mình, Medvedeva cùng Irina Slutskaya, Tara Lipinski, Yuna Kim, và Mao Asada trở thành những vận động viên nữ duy nhất vô địch chung kết Grand Prix hai mùa liên tiếp.

Vào tháng Mười hai năm 2016, Medvedeva bảo vệ thành công tấm huy chuơng của mình tại Giải quốc gia Nga 2017, dù cú 3T trong cú nhảy liên hợp 3S-3T-3T không được tính điểm. Cô phát biểu rằng, "Trước kia, cả cú nhảy liên hợp sẽ không được tính, nhưng giờ người ta chỉ không tính cú 3T và em cũng nghĩ rằng, nếu mình làm được, sao không thử?".[37] Tháng Một năm 2017, cô thi đấu tại Giải vô địch châu Âu 2017 tại Ostrava, Cộng hòa Séc. Dẫn đầu ở cả bài thi ngắn và tự do, cô giành chức quán quân trong khi Anna Pogorilaya (thấp hơn 18.32 điểm) và Sotskova (thấp hơn 37.19 điểm) lần lượt đứng ở vị trí thứ hai và thứ tư. Cô cũng phá kỷ lục thế giới của chính mình với số điểm 150.79 và trở thành người nắm giữ kỷ lục thế giới cho điểm tổng (229.71), một kỷ lục trước đó được Yuna Kim nắm giữ.[38][39]

Medvedeva (giữa) với Kaetlyn Osmond (trái) và Gabrielle Daleman (phải) trên bục huy chương tại Giải vô địch thế giới 2017

Cô tranh đấu tại Giải vô địch thế giới 2017 vào tháng Ba năm 2017, diễn ra ở Helsinki, Phần Lan. Xếp thứ nhất ở cả hai bài thi, cô lần nữa phá kỷ lục với điểm số 154.40 cho bài thi tự do và 233.41 cho điểm tổng, trở thành nữ vận động viên đầu tiên có số điểm tổng vượt trên 230 điểm. Điểm tổng của cô cao hơn tới 15.28 điểm so với á quân Kaetlyn Osmond. Medvedeva là nữ vận động viên duy nhất nhận được điểm 10.00 tròn trong điểm trình bày. Cô trở thành nhà vô địch thế giới hai năm liên tiếp đầu tiên sau 16 năm kể từ khi Michelle Kwan đạt được thành tích này vào năm 2000 và 2001, và là nữ vận động viên đầu tiên của Nga bảo vệ thành công danh hiệu của mình tại Giải thế giới.[40]

Tháng Tư năm 2017, Medvedeva thi đấu cho đoàn Nga tại Cúp đồng đội thế giới ISU 2017 tại Tokyo, Nhật Bản. Cô dẫn đầu sau bài thi ngắn với 80.85 điểm, trở thành nữ vận động viên đầu tiên vượt qua ngưỡng điểm 80 cho bài thi ngắn. Một lần nữa tại bài thi tự do, cô xếp thứ nhất với số điểm kỷ lục thế giới mới là 160.46, là nữ vận động viên đầu tiên vượt trên 160 điểm cho bài thi tự do. Medvedeva mang về tổng 24 điểm và giúp đoàn Nga có được chiếc huy chuơng bạc thứ hai liên tiếp trong khi đoàn Nhật và đoàn Mỹ lần lượt thắng huy chuơng vàng và đồng. Dù giải đấu lần này không tính điểm tổng, ISU sau đó đã phê duyệt kỷ lục thế giới mới cho điểm tổng của cô với số điểm 241.31; qua đó, Medvedeva trở thành nữ vận động viên đầu tiên vượt trên 240 điểm cho điểm tổng. Phát biểu về thành tích, Medvedeva nói rằng, "Em ra sân với tâm trạng bình tĩnh và thoải mái, em không hoài nghi hay suy nghĩ tự ti gì về mình cả.”[41]

Mùa giải 2017–2018: Thế vận hội Olympic 2018 và thay đổi huấn luyện viên

Medvedeva tiếp tục chuỗi ngày thắng liên tiếp huy chuơng vàng tại Cúp Ondrej Nepela 2017 ở Bratislava, Slovakia.[42] Tuy thế, sau cuộc thi, cô quyết định đổi nhạc nền cho bài thi tự do sang Anna Karenina, và lần đầu trình diễn nó tại giải Nhật Mở rộng. Giữa tháng Mười, chỉ vài ngày trước Cúp Rostelecom 2017, cô được chẩn đoán bị nứt xương bàn chân phải.[43] Dù vẫn thắng Cúp Rostelecom cũng như một giải Grand Prix sau đó là Cúp NHK 2017 được tổ chức một tháng sau đó tại Osaka, Nhật Bản, chấn thương bàn chân đã buộc cô phải rút khỏi chung kết Grand Prix cũng như Giải vô địch quốc gia Nga và vì thế không thể bảo vệ được danh hiệu của mình ở cả hai giải đấu.

Thi đấu tại Giải vô địch châu Âu 2018 tổ chức ở quê nhà Moscow, Nga, Medvedeva về thứ hai sau đồng đội của mình là Alina Zagitova. Ngày hôm sau, Chủ nhật ngày 21 tháng Một, cô được ghi tên trong danh sách đội tuyển Nga thi đấu tại Thế vận hội Olympic cùng với Zagitova và Maria Sotskova dưới lá cờ Vận động viên Olympic từ Nga.[44]

Medvedeva đã ghi được một kỷ lục thế giới mới với số điểm 81.01 trong bài thi ngắn tại nội dung đồng đội.[45], góp phần mang về 10 điểm giúp Nga giành được huy chương bạc tại nội dung đồng đội.[46]

Medvedeva (trái) với Alina Zagitova (giữa) và Kaetlyn Osmond (phải) trên bục huy chương tại Thế vận hội Mùa đông 2018

Trong nội dung cá nhân, Medvedeva đứng thứ hai với điểm số 81.61, lập một kỷ lục thế giới mới trước khi bị phá bởi đồng đội của cô, Alina Zagitova. Tại bài thi tự do, cô đạt được số điểm 156.65, mang về điểm tổng là 238.26, khiến cô xếp thứ hai sau Zagitova. Zagitova tuy cũng nhận được 156.65 điểm cho bài thi tự do của mình, nhưng với điểm tổng là 239.57, Medvedeva bị đẩy xuống vị trí thứ hai và giành huy chương bạc.[47]

Ngày 7 tháng Năm năm 2018, Medvedeva thông báo chấm dứt với huấn luyện viên lâu năm Eteri Tutberidze và chuyển tới Toronto để luyện tập dưới sự huấn luyện của Brian Orser, nhưng vẫn sẽ đại diện Nga và câu lạc bộ của mình (Sambo 70) khi luyện tập tại Canada.[48]Medvedeva xác nhận lý do chấm dứt với huấn luyện viên của mình là bà Tutberidze trên một buổi phát trực tiếp trên Instagram, lập luận rằng 'cô rời đi để làm việc với một huấn luyện viên có thể coi nhau là bạn' [49] chứ không phải xuất phát từ mong muốn đạt được kết quả cao hơn nữa. Cô giải thích rằng ở Orser, cô tìm được cảm giác làm việc với một người bạn, hai bên đều được lắng nghe một cách bình đẳng, điều mà cô không tìm thấy khi làm việc với Tutberidze.[50]

Mùa giải 2018–2019: Gian truân và huy chương đồng tại Giải thế giới

Medvedeva biểu diễn Gala tại Internationaux de France 2018

Medvedeva bắt đầu mùa giải với đội ngũ huấn luyện mới của mình tại Autumn Classic International, dẫn đầu sau bài thi ngắn và xếp thứ hai sau bài thi tự do, chung cuộc giành huy chương bạc sau Bradie Tennell và xếp trước Maé-Bérénice Méité.

Vào tháng Mười, Medvedeva bắt đầu thi đấu tại các giải Grand Prix. Tại Skate Canada 2018, cô ngã khi nhảy cú 3F trong bài thi ngắn, dẫn tới việc lỡ mất cú nhảy liên hợp và kết quả xếp thứ bảy. Sau đó, bằng việc xếp nhất trong bài thi tự do, cô giành huy chương đồng sau Elizaveta Tuktamysheva và Mako Yamashita.[51] Đứng thứ tư tại Internationaux de France 2018 vào tháng Mười một sau khi liên tục ngã và xoay thiếu vòng trong cả hai bài thi, đây là lần đầu tiên Medvedeva không giành được huy chương trong suốt sự nghiệp ở cả cấp độ thiếu niên và trưởng thành của mình.[52]

Medvedeva và Brian Orser tại Giải quốc gia Nga 2019

Sau phần thi đáng buồn tại Pháp, Medvedeva đổi nhạc bài thi ngắn từ "Orange Colored Sky" sang Tosca, sáng tác bởi Giacomo Puccini với vũ đạo được biên đạo bởi bạn cô, Misha Ge.[53] Ở trạm dừng tiêp theo, Giải quốc gia Nga 2019, tuy không trình bày tốt bài thi mới với việc xoay thiếu vòng ở cú nhảy thứ nhất, nhảy hỏng cú thứ hai và ngã cú 2A, cô vẫn cảm thấy tốt hơn so với phần trình bày của mình trước đó tại Pháp.[54] Đứng ở vị trí thứ 14 sau bài thi tự do, dù ngã, cô vẫn thi đấu với phong độ tốt hơn tại bài thi tự do. Xếp thứ tư sau bài thi ngắn và thứ bảy tổng thể, cô không chỉ về sau các vận động viên thiếu niên (giành toàn bộ huy chương tại giải), mà còn sau các vận động viên trưởng thành, Stanislava Konstantinova, Alina Zagitova và Sofia Samodurova.[55] Phát biểu sau giải đấu, Medvedeva nói rằng "Dù phạm lỗi, nhưng với kết quả hôm nay thì tôi hài lòng rồi."[55]

Medvedeva (phải) trên bục huy chương tại Giải vô địch thế giới 2019

Cô được ghi tên trong danh sách dự bị của đội tuyển Nga cho Giải vô địch châu Âu (thứ hai) và Winter Universiade (thứ nhất); cô sau đó được cử đi thi Winter Universiade sau khi Elizaveta Tuktamysheva rút lui, nhưng Medvedeva cũng rút và Maria Sotskova được cử đi thay cho Medvedeva. Vào tháng Hai, thi đấu tại Cúp Chung kết Nga 2019, cô giành vị trí quán quân với việc dẫn nhất trong bài thi ngắn và thứ hai trong bài thi tự do, vì thế Medvedeva được gọi vào đội tuyển thi đấu tại Giải vô địch thế giới 2019. [56]

Dù gặp chấn thương đùi, Medvedeva vẫn quyết định thi đấu tại Giải vô địch thế giới 2019. Đứng thứ tư sau bài thi ngắn do xoay thiếu vòng trong cú nhảy liên hợp, cô tiến lên vị trí thứ ba toàn thể và giành huy chương đồng sau khi đứng thứ ba tại bài thi tự do với chỉ một lỗi nhỏ khi xoay thiếu vòng cú 2A.[57] [58] Cô từ chối tham dự Cúp đồng đội thế giới ISU 2019 để phục hồi chấn thương.

Mùa giải 2019–2020

Medvedeva tại giải đấu CS Autumn Classic International 2019

Medvedeva bắt đầu mùa giải với việc thi đấu tại Autumn Classic International, xếp thứ hai ở cả hai bài thi và giành ngôi vị á quân sau Rika Kihira.[59] Tại Cúp Thượng Hải, cô vẫn quyết định thi đấu dù chưa hồi phục khỏi cơn sốt buộc cô phải gián đoạn việc tập luyện trong suốt cả tuần.[60] Dù thế, cô vẫn dẫn đầu sau bài thi ngắn và thứ hai sau bài thi tự do, mang về kêt quả chung cuộc là chiến thắng trước Elizabet Tursynbaeva và Lim Eun-soo. Đây là tấm huy chương vàng đầu tiên của cô dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Orser và trên đấu trường quốc tế kể từ Cúp NHK 2017.[61]

Bắt đầu thi đấu tại các giải Grand Prix, Medvedeva đứng thứ sáu sau một bài thi ngắn không thành công tại Skate Canada khi cô xoay thiếu vòng cú 3T trong cú liên hợp 3F-3T, nhảy trượt cú 2A và xoay thiếu vòng cú 3Lz.[62] Mặc dù thế, ở bài thi tự do, cô thi đấu với phong độ tốt và xếp thứ ba sau Alexandra Trusova và Kihira. Với số điểm 146.73, đây là số điểm cao nhất mùa và đẩy cô lên vị trí thứ năm chung cuộc.[63]

Thi đấu tại Cúp Rostelecom tại quê nhà Moscow, Medvedeva dẫn đầu bài thi ngắn với 76.93 điểm, số điểm cao nhất cô đạt được dưới hệ thống chấm điểm mới.[64] Ngoài bị gọi cạnh ở cú Lutz, cô trượt hoàn hảo bài thi của mình, đứng thứ hai sau phần thi và giành vị trí á quân sau Alexandra Trusova với số điểm cao nhất mới là 225.76.[65]

Giày trượt của Medvedeva bị gãy khi đang luyện tập tại Giải quốc gia Nga 2020. Do không thể tìm được đôi nào để thay thế, cô quyết định vẫn thi đấu và đạt được số điểm 71.08, đứng thứ năm sau Alena Kostornaia, Anna Shcherbakova, Trusova và Tuktamysheva. Sau khi thử trượt với đôi giày bị hỏng trong buổi luyện tập, cô và Brian Orser đưa ra quyết định rút khỏi giải đấu và chuẩn bị luyện tập cho mùa giải năm sau.[66]

Mùa giải 2020–2021

Vào tháng Tư năm 2020, Medvedeva bay tới Nhật Bản để chuẩn bị cho show diễn trượt băng Sailor Moon của mình, nhưng cuối cùng lại bị hủy bỏ do đại dịch COVID-19. Không thể trở về nơi luyện tập của mình tại Canada do lệnh hạn chế đi lại, cô quay về Moscow vào tháng Sáu và luyện tập ở sân băng CSKA với Tatiana Tarasova.[67] Trong khi đó, Medvedeva giữ liên lạc với Orser qua Skype và lên kế hoạch trở lại Toronto khi các hạn chế được nới lỏng.[68]

Đầu tháng Chín, Medvedeva trình diễn các bài thi mới của mình là Masquerade WaltzAlegría tại buổi kiểm tra trượt Nga. Cô phạm lỗi ở cả hai bài thi và sau đó tiết lộ rằng cô mắc chấn thương lưng mãn tính.[69]

Ngày 16 tháng Chín năm 2020, Medvedeva thông báo rằng cô quyết định quay trở lại luyện tập với đội ngũ huấn luyện cũ của mình, Eteri Tutberidze, Sergei Dudakov, và Daniil Gleikhengauz.[70] Cô và Orser kết thúc trong êm đẹp.[71] Theo như Orser chia sẻ, Medvedeva có thể đi từ Nhật Bản tới Canada, nhưng mẹ Medvedeva có visa khác với cô và không thể được nhập cảnh, và cô không muốn rời đi mà không có mẹ.[72]

Medvedeva đăng ký thi vòng thứ nhất và thứ hai tại Cúp Nga, hệ thống vòng loại cho Giải quốc gia Nga 2021. Dù thế, cô rút khỏi cả hai cuộc thi và không thi thêm vòng nào trong hệ thống giải do chấn thương lưng.[73] Do đại dịch COVID-19, toàn bộ các giải Grand Prix đều chỉ cho phép thí sinh có quốc tịch hoặc nơi luyện tập nhất định. Vì thế, Medvedeva được đăng ký thi đấu tại Cúp Rostelecom 2020, nhưng rút lui do đau lưng nghiêm trọng.[74]

Vào tháng Mười một, truyền thông đưa tin Medvedeva dương tính với COVID-19 sau khi xuất hiện triệu chứng.[75] Cô phải nhập viện trong tình trạng phổi bị tàn phá nghiêm trọng, dành cả tháng Mười một và đầu tháng Mười hai để phục hồi.[76] Ngày 8 tháng Mười hai, cô trở lại luyện tập nhưng được bác sĩ khuyến cáo không nên chuẩn bị cho Giải quốc gia Nga 2021 chỉ còn cách đó hai tuần được tổ chức vào cuối tháng, khiến cô buộc phải rút khỏi Giải quốc gia.[77] Tuy vậy, cô vẫn đủ khỏe để đến tham dự với tư cách khán giả và trình diễn gala.

Danh sách đội tuyển quốc gia cho mùa giải 2021–22 được công bố vào ngày 14 tháng Năm năm 2021. Medvedeva không được ghi tên trong đội tuyển.[78]

Mùa giải 2021–2022: Giải nghệ

Vào tháng Sáu, Medvedeva không được đăng ký thi đấu tại bất cứ giải đấu nào thuộc Hệ thống giải Grand Prix mùa giải 2021–22. Ngày 5 tháng Tám, Medvedeva tiết lộ ý định bỏ qua mùa giải này, qua đó từ bỏ khả năng tranh suất thi đấu tại Thế vận hội Olympic lần hai của cô.[79] Ngày 1 tháng Mười hai năm 2021, Medvedeva tuyên bố cô quyết định giải nghệ khỏi thi đấu vì chấn thương lưng.[80][81]

Kỹ thuật trượt băng

Medvedeva nhảy cú Lutz tại Thế vận hội Mùa đông 2018

Medvedeva thường nhảy với kỹ thuật giơ tay quá đầu được gọi là kiểu nhảy "Tano", do Brian Boitano làm thịnh hành bằng việc sử dụng nó trong cú Lutz của ông. Cô nhảy nhiều cú nhảy liên hợp kết thúc bằng cú 3T, ví dụ như 3F-3T, 3S-3T, 3Lo-3T và 2A-3T. Cô còn nổi tiếng với việc tập luyện nhảy nhiều cú liên hợp 3-3-3 và 3-3-3-3. Trong mùa giải 2016–2017, Medvedeva cũng thường xuyên sử dụng kỹ thuật nhảy "Rippon", kiểu nhảy với hai tay giơ quá đầu. Trong mùa giải 2018–19, Medvedeva cũng bắt đầu bỏ cú 3Lo vào đoạn kết của các cú liên hợp, ví dụ như 3S-3Lo. Khi tập luyện, cô cũng đã nhảy các cú 2A-3Lo, 3Lo-3Lo và 3F-3Lo. Cô cũng thường xuyên thực hiện động tác dang chân theo hình chữ I với tay bắt lấy chân và trượt vào chính giữa sân băng vào phần cuối của bài diễn.[82]

Các thỏa thuận hợp đồng

Medvedeva xuất hiện trên bìa của tờ Russian Tatler, số tháng Năm năm 2017,[83] cũng như số tháng Bảy năm 2017 của tờ Elle Girl Nga,[84] tháng Ba năm 2018 của tờ Top Beauty Russia.[85] Cô đứng thứ 46 trong danh sách top 50 các vận động viên hoạt động thương mại nhiều nhất của tờ SportsPro.[86] Cô cũng là vận động viên trượt băng nghệ thuật thứ hai được tờ tạp chí thể thao Anh này đề cập đến sau Yuna Kim vào năm 2013.[87] Medvedeva cũng có tên trong danh sách Top 50 những vận động viên thống trị toàn ngành thể thao năm 2017 và đứng thứ 14 của tạp chí Business Insider[88] cùng với 'Top 30 những người châu Âu dưới 30 tuổi' của Forbes về những người trẻ tuổi thành công nhất của châu Âu năm đó.[89]

Medvedeva được tài trợ bởi John Wilson, công ty sản xuất lưỡi giày Gold Seal mà cô sử dụng,[86][90] Edea, hãng giày cô đi, và Nike. Năm 2018, John Wilson gửi tặng cô một lưỡi giày vàng 24k màu hoa hồng khắc tên cô, được thiết kế bởi đồng nghiệp và bạn cô là Misha Ge. Các hợp đồng khác của cô bao gồm đại sứ thương hiệu cho Pantene vào năm 2018. Năm 2019, Medvedeva xuât hiện trong một quảng cáo truyền hình cho tựa game Nhật Bản Magia Record: Puella Magi Madoka Magica Gaiden vơi đồng đội Alina Zagitova.[91] Cô cũng đã hợp tác với các hãng hàng Rivaland and Aniplex của Nhật. Tháng Hai năm 2021, Medvedeva trở thành đại sứ của Ozon,[92] và sang tháng sau là Nestle.[93] Thang Tư năm 2022, cô lên bìa tạp chí Maxim Russia dành cho đàn ông.[94][95]

Thành tích và kỷ lục

Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Medvedeva Huân chương hữu nghị vào năm 201
  • Vận động viên đơn đầu tiên thắng 13 giải đấu liên tiếp dưới Hệ thống chấm điểm ISU.
  • Nữ vận động viên vô địch Giải thế giới cấp độ trưởng thành ngay sau năm vô địch Giải thế giới cấp độ thiếu niên, vô địch tại Giải vô địch Thiếu niên thế giới 2015 và rồi tại Giải vô địch thế giới 2016.[11]
  • Nữ vận động viên vô địch Giải thế giới cấp độ trưởng thành liên tiếp hai lần ngay sau năm vô địch Giải thế giới cấp độ thiếu niên, vô địch tại Giải vô địch Thiếu niên thế giới 2015 và rồi tại Giải vô địch thế giới 2016 và Giải vô địch thế giới 2017.

Kỷ lục cũ

  • Phá kỷ lục thế giới cho điểm số cao nhất trong bài thi ngắn đơn nữ cấp thiếu niên với số điểm 68.48 tại Giải vô địch Thiếu niên thế giới 2015.
  • Giữ kỷ lục thế giới cho tổng điểm hai bài thi đơn nữ (241.31), phá kỷ lục của Yuna Kim. Chính Medvedeva sau đó cũng đã phá kỷ lục này 3 lần: Giải vô địch châu Âu 2017 (229.71), Giải vô địch thế giới 2017 (233.41), và Cúp đồng đội thế giới ISU 2017 (241.31).
  • Giữ kỷ lục thế giới cho bài thi tự do đơn nữ (160.46) phá kỷ lục của Yuna Kim. Chính Medvedeva sau đó cũng đã phá kỷ lục này 4 lần: Giải vô địch thế giới 2016 (150.10), Giải vô địch châu Âu 2017 (150.79), Giải vô địch thế giới 2017 (154.40), và Cúp đồng đội thế giới ISU 2017 (160.46).
  • Nữ vận động viên đầu tiên vượt qua số điểm 80 trong bài thi ngắn, đạt được tại Cúp đồng đội thế giới ISU 2017 (80.85).
  • Nữ vận động viên đầu tiên vượt qua số điểm 160 trong bài thi tự do, đạt được tại Cúp đồng đội thế giới ISU 2017 (160.46).
  • Nữ vận động viên đầu tiên vượt qua số điểm 230 cho điểm tổng, đạt được tại Giải vô địch thế giới 2017 (233.41).
  • Nữ vận động viên đầu tiên vượt qua số điểm 240 cho điểm tổng, đạt được tại Cúp đồng đội thế giới ISU 2017 (241.31).

Danh sách kỷ lục cũ thuộc về Medvedeva

Điểm kỷ lục thế giới cũ

Lưu ý: Vì hệ thống điểm thưởng GOE (Grade of Execution) +5 / -5 được giới thiệu để thay thế cho hệ thốnhgg GOE +3 / -3 cũ, Liên đoàn Trượt băng Thế giới quyêt định mọi số liệu thống kê sẽ được khởi động lại từ con số 0 từ mùa giải 2018–19 trở đi và mọi số liệu trước đó sẽ được tính là kỷ lục cũ.[96]

Medvedeva đã phá kỷ lục thế giới tới 13 lần trước mùa giải 2018–19.

Kỷ lục điểm tổng[97]
NgàySố điểmGiải đấuGhi chú
22/4/2017241.31Cúp đồng đội thế giới ISU 2017Kỷ lục cũ.
Medvedeva trở thành nữ vận động viên đầu tiên và duy nhất vượt qua số điểm 240 cho điểm tổng trước mùa giải 2018–19.
31/3/2017233.41Giải vô địch thế giới 2017Medvedeva trở thành nữ vận động viên đầu tiên vượt qua số điểm 230.
27/1/2017229.71Giải vô địch châu Âu 2017Medvedeva phá vỡ kỷ lục của Yuna Kim được ghi nhận từ tháng Hai năm 2010.
Kỷ lục điểm bài thi ngắn[98]
NgàySố điểmGiải đấuGhi chú
21/2/201881.61Thế vận hội Mùa đông 2018Kỷ lục cũ
Bị Alina Zagitova phá sau đó 20 phút tại cùng giải đấu.
11/2/201881.06Thế vận hội Mùa đông 2018 - Nội dung đồng độiLưu ý: Kết qua thi đồng đội không được lưu trữ trên trang dữ liệu của ISU.
20/4/201780.85Cúp đồng đội thế giới ISU 2017Medvedeva trở thành nữ vận động viên đầu tiên vượt qua số điểm 80.
9/12/201679.21Chung kết Grand Prix mùa giải 2016–17Medvedeva phá vỡ kỷ lục của Mao Asada được ghi nhận từ tháng Ba năm 2014.
Kỷ lục điểm bài thi tự do[99]
NgàySố điểmGiải đấuGhi chú
22/4/2017160.46Cúp đồng đội thế giới ISU 2017Kỷ lục cũ.
Medvedeva trở thành nữ vận động viên đầu tiên và duy nhất vượt qua số điểm 160 cho điểm bài thi tự do trước mùa giải 2018–19.
31/3/2017154.40Giải vô địch thế giới 2017
27/1/2017150.79Giải vô địch châu Âu 2017
2/4/2016150.10Giải vô địch thế giới 2016Medvedeva phá vỡ kỷ lục của Yuna Kim được ghi nhận từ tháng Hai năm 2010.
Kỷ lục điểm bài thi ngắn câp thiếu niên
NgàySố điểmGiải đấuGhi chú
7/3/201568.48Giải vô địch Thiếu niên thế giới 2015
13/12/201467.09Chung kết Grand Prix Thiếu niên 2014–15

Điểm cao nhất của Medvedeva dưới hệ thống cũ

Kỷ lục điểm tổng[100]
Thứ hạng mọi thời đạiSố điểmGiải đấuGhi chú
1241.31Cúp đồng đội thế giới ISU 2017Điểm cao nhất dưới hệ thống cũ.
Medvedeva là nữ vận động viên duy nhất vượt qua số điểm 240 cho điểm tổng. Cô đã vượt qua số điểm 220 tới 13 lần, 5 lần vượt qua 230 điểm và một lần qua ngưỡng 240. 10/15 số điểm tổng cao nhất mọi thời đại dưới hệ thống cũ thuộc về Medvedeva.
(2)(Alina Zagitova 239.57)
3238.26Thế vận hội Mùa đông 2018
(4)(Alina Zagitova 238.24)
5233.41Giải vô địch thế giới 2017
6232.86Giải vô địch châu Âu 2018
7231.21Cúp Rostelecom 2017
Kỷ lục điểm bài thi ngắn[cần dẫn nguồn]
Thứ hạng mọi thời đạiSố điểmGiải đấuGhi chú
(1)(Alina Zagitova 82.92)Điểm cao nhất dưới hệ thống cũ.
Medvedeva đã vượt qua số điểm 78 tới 11 lần và 5 lần vượt qua 80 điểm trong bài thi ngắn. 9/11 số điểm bài thi ngắn cao nhất mọi thời đại dưới hệ thống cũ thuộc về Medvedeva.
Cô là vận động viên đầu tiên vượt qua số điểm 80 trong bài thi ngắn tại đấu trường quốc tế.
281.61Thế vận hội Mùa đông 2018
381.06Thế vận hội Mùa đông 2018 - Nội dung đồng đội
480.85Cúp đồng đội thế giới ISU 2017
580.75Cúp Rostelecom 2017
(6)(Alina Zagitova and Carolina Kostner 80.27)
880.00CS Cúp Ondrej Nepela 2017
Kỷ lục điểm bài thi tự do[cần dẫn nguồn]
Thứ hạng mọi thời đạiSố điểmGiải đấuGhi chú
1160.46Cúp đồng đội thế giới ISU 2017Điểm cao nhất dưới hệ thống cũ.
Medvedeva là nữ vận động viên đầu tiên vượt qua số điểm 160 trong bài thi tự do. Cô đã vượt qua số điểm 146 tới 10 lần, 7 lần vượt qua 150 điểm và một lần qua ngưỡng 160. 6/12 số điểm bài thi ngắn cao nhất mọi thời đại dưới hệ thống cũ thuộc về Medvedeva.

10/15 số điểm cao nhất mọi thời đại dưới hệ thống cũ thuộc về Medvedeva.

(2)(Alina Zagitova 158.08)
(3)(Alina Zagitova 157.97)
4156.65Thế vận hội Mùa đông 2018
(Alina Zagitova 156.65)
6154.40Giải vô địch thế giới 2017
7154.29Giải vô địch châu Âu 2018
Medvedeva tại Giải quốc gia Nga 2019
Medvedeva tại Autumn Classic International 2018

Bài thi

Medvedeva biểu diễn gala tại Thế vận hội Olympic 2018
Medvedeva thi đấu tại Thế vận hội Olympic 2018

Sau năm 2021

Mùa giảiGala
2021–2022
[101][102]
  • Grazie
    biểu diễn bởi Hibla Gerzmava
    biên đạo bởi Ilia Averbukh



  • Alegría
    (từ Cirque du Soleil)
    sáng tác bởi René Dupéré
    biên đạo bởi Shae-Lynn Bourne

  • Memoirs of a Geisha
    sáng tác bởi John Williams
    biên đạo bởi Shae-Lynn Bourne

Trước năm 2021

Mùa giảiBài thi ngắnBài thi tự doGala
2020–2021
[103][104]
  • Vai Vedrai
  • Alegría
  • Jeux d'enfants
    (từ Cirque du Soleil)
    sáng tác bởi René Dupéré
    biên đạo bởi Shae-Lynn Bourne
  • Echo of Love
    sáng tác bởi Anna German
    biên đạo bởi Eteri Tutberidze

  • Kometa
    sáng tác bởi JONY
    biên đạo bởi Ilia Averbukh
2019–2020
[105][106]
  • Exogenesis: Symphony Part 3 (Redemption)
    biểu diễn bởi Muse
    biên đạo bởi Ilia Averbukh và Jeffrey Buttle
  • idontwannabeyouanymore
    biểu diễn bởi Billie Eilish
    biên đạo bởi Joey Russell

  • The Windmills of Your Mind
    sáng tác bởi Michel Legrand
    biểu diễn bởi All Angels

  • Beautiful Mess
    biểu diễn bởi Kristian Kostov
    tự biên đạo
2018–2019
[107][53]
  • E lucevan le stelle
    (từ vở Tosca, sáng tác bởi Giacomo Puccini)
    biên đạo bởi Misha Ge

  • Orange Colored Sky
    biểu diễn bởi Natalie Cole
    sáng tác bởi David Wilson, Sandra Bezic
  • Mumuki
  • Regreso al amor
    (nhạc phim Sur)
  • Libertango
    sáng tác bởi Astor Piazzolla
    biểu diễn bởi Yo-Yo Ma
    biên đạo bởi David Wilson
  • Faith
    biểu diễn bởi May J.
    biên đạo bởi Stéphane Lambiel

  • Million Roses
    sáng tác bởi Raimonds Pauls
    biểu diễn bởi Alla Pugacheva
    biên đạo bởi Shae-Lynn Bourne
    [105]



  • Beautiful Mess
    biểu diễn bởi Kristian Kostov
    tự biên đạo

  • The Windmills of Your Mind[109]
    sáng tác bởi Michel Legrand
    biểu diễn bởi All Angels
2017–2018
[110][111][112]
  • Overture
  • Dance with Me
  • I Understood Something
  • Too Late
    (nhạc phim Anna Karenina)
    sáng tác bởi Dario Marianelli
    biên đạo bởi Daniil Gleichengauz

  • January Stars
    sáng tác bởi George Winston
  • Divenire
    sáng tác bởi Ludovico Einaudi
  • The Departure (Lullaby)
  • Dona Nobis Pacem 2
    (nhạc phim The Leftovers)
    sáng tác bởi Max Richter




  • Overture
  • Dance with Me
  • I Understood Something
  • Too Late
    (nhạc phim Anna Karenina)
    sáng tác bởi Dario Marianelli
    biên đạo bởi Daniil Gleichengauz
2016–2017
[23]
  • River Flows in You
    sáng tác bởi Yiruma
  • The Winter
    sáng tác bởi Balmorhea
    biên đạo bởi Ilia Averbukh
  • Extremely Loud and Incredibly Close
  • Piano Lesson with Grandma
    (nhạc phim Extremely Loud and Incredibly Close)
    sáng tác bởi Alexandre Desplat
  • Flying
    sáng tác bởi Dan Cullen
    biên đạo bởi Daniil Gleichengauz và Ilia Averbukh

biểu diễn bởi Vladimir Spivakov, Sergei Bezrodny


  • Mamarl
    sáng tác bởi Patax
    biên đạo bởi David Wilson[116]


  • Vogue
    biểu diễn bởi Madonna
    biên đạo bởi Daniil Gleichengauz

  • Moonlight Densetsu
    từ phim anime Sailor Moon
    biên đạo bởi Daniil Gleichengauz
2015–2016
[117][118][119]
  • Melodies of the White Night
    sáng tác bởi Isaac Schwartz
    biên đạo bởi Alexander Zhulin
  • Dance for Me Wallis
    (nhạc phim W.E.)
    sáng tác bởi Abel Korzeniowski
  • Allegro
    sáng tác bởi René Aubry
  • Charms
    (nhạc phim W.E.)
    sáng tác bởi Abel Korzeniowski
    biên đạo bởi Ilia Averbukh và Igor Strelkin

  • Ostanus
    biểu diễn bởi Gorod 312

  • Tore My Heart
    biểu diễn bởi Oona Garthwaite
  • Rama Lama (Bang Bang)
    biểu diễn bởi Róisín Murphy

2014–2015
[120][18]
  • The Umbrellas of Cherbourg
    sáng tác bởi Michel Legrand
    biên đạo bởi Alexander Zhulin
  • Ein Sommernachtstraum
    sáng tác bởi Hans Günter Wagener
  • Tango Tschak
    sáng tác bởi Hugues Le Bars
    biên đạo bởi Eteri Tutberidze

2013–2014
[121]
  • Ballet Russe
    biểu diễn bởi Frank Mills
    sáng tác bởi Eteri Tutberidze
  • Nocturne
    (từ phim La califfa)
    sáng tác bởi Ennio Morricone
  • Never Gonna Miss You
    biểu diễn bởi nhiều nghệ sĩ
    biên đạo bởi Eteri Tutberidze
  • Russian Gypsy Music
2012–2013
  • James Bond Theme
    biên đạo bởi Eteri Tutberidze
  • Na Katere
  • Gramofon
    sáng tác bởi Eugen Doga
    biên đạo bởi Eteri Tutberidze
2011–2012
  • Rich Man's Frug
    sáng tác bởi Cy Coleman
    biên đạo bởi Eteri Tutberidze
  • Na Katere
  • Gramofon
    sáng tác bởi Eugen Doga
    biên đạo bởi Eteri Tutberidze
2010–2011
  • Medley
    sáng tác bởi Charlie Chaplin
    biên đạo bởi Eteri Tutberidze
  • Tsyganochka
    (tiếng Nga: Цыганочка)
  • Ekh raz, eshche raz
    (tiếng Nga: Эх раз, ещё раз)
    biên đạo bởi Eteri Tutberidze
2009–2010

Bảng tóm tắt thành tích

GP: Grand Prix; CS: Challenger Series; JGP: Junior Grand Prix.

Video
Bài thi ngắn của Medvedeva tại [[Trượt băng nghệ thuật tại Thế vận hội Mùa đông 2018 - Đơn nữ|Thế vận hội Olympic 2018]]
Bài thi tự do của Medvedeva tại [[Trượt băng nghệ thuật tại Thế vận hội Mùa đông 2018 - Đơn nữ|Thế vận hội Olympic 2018]]
Medvedeva tại Thế vận hội Mùa đông 2018
Medevdeva tại Cúp NHK 2017
Quốc tế[10]
Giải đấu13–1414–1515–1616–1717–1818–1919–2020–21
Olympics2
Vô địch thế giới11WD3
Giải vô địch châu Âu112
GP Final11WD
GP Skate America1
GP Skate Canada134
GP Pháp14
GP Cúp Rostelecom212WD
GP Cúp NHK1
CS Autumn Classic22
CS Ondrej Nepela11
Cúp Thượng Hải1
Quốc tế: Thiếu niên[10]
Thiếu niên thế giới31
JGP Final31
JGP Cộng hòa Séc1
JGP Pháp1
JGP Latvia1
JGP Ba Lan1
Ice Star1
Nội địa[122]
Giải vô địch quốc gia Nga.7311WD7WDWD
Giải vô địch quốc gia thiếu niên Nga.41
Chung kết Cúp Nga21
Đồng đội
Olympics2 T
1 P
Cúp đồng đội thế giới ISU2 T
1 P
Cúp Đồng đội2 T
1 P
Giải Nhật Mở rộng2 T
1 P
1 T
1 P
J = Thiếu niên; TBD = Sẽ thi đấu; WD = Rút lui
T = Kết quả đồng đội; P: Kết quả cá nhân. Huy chương trao cho cả đội.

Trước khi thi quốc tế

Nội địa[10]
Giải đấu10–1111–1212–13
Giải vô địch quốc gia Nga.8th
Giải vô địch quốc gia thiếu niên Nga.12th6th4th
Chung kết Cúp Nga2nd J2nd J
J = Thiếu niên

Kết quả chi tiết

Các tiểu huy chuơng cho bài thi ngắn và bài thi tự do chỉ được trao tại các giải đấu ISU. Huy chuơng được trao cho cả đội tại nội dung đồng đội.

Cấp độ trưởng thành

Medvedeva tại Giải vô địch châu Âu 2018
Medevdeva tại Chung kết Grand Prix 2016–17
Medvedeva tại Chung kết Grand Prix 2015–16

Điểm cao nhất dưới hệ thống chấm điểm cũ được in đậm. Kỷ lục thế giới dưới hệ thống cũ được in đậm kèm theo dấu *. Điểm cá nhân cao nhất vào thời điểm hiện tại được in nghiêng.

*WD = Rút lui; SP = bài thi ngắn; FS = bài thi tự do; T = Kết quả đồng đội; P = Kết quả cá nhân

Mùa giải 2019–20
Ngày thiGiải đấuSPFSTổng
24–29/12/2019Giải quốc gia Nga 20205
71.08
WDWD
15–17/12/2019Cúp Rostelecom 20191
76.93
2
148.83
2

225.76

25–27/10/2019Skate Canada International 20196
62.89
3
146.73
5
209.62
3–5/10/2019Cúp Thượng Hải 20191
72.16
2
119.62
1
191.78
12–14/10/2019CS Autumn Classic International 20192
75.14
2
142.29
2
217.43
Mùa giải 2018–19
Ngày thiGiải đấuSPFSTổng
18–24/3/2019Giải vô địch thế giới 20194
74.23
3
149.57
3
223.80
18–22/2/2019Cúp Chung kết Nga 2019
thi nội địa
1
76.89
2
146.01
1
222.90
19–23/12/2018Giải quốc gia Nga 201914
62.24
4
143.66
7
205.90
23–25/11/2018Internationaux de France 20183
67.55
5
125.26
4
192.81
26–28/10/2018Skate Canada International 20187
60.83
1
137.08
3
197.91
20–22/9/2018CS Autumn Classic International 20181
70.98
2
133.91
2
204.89
Mùa giải 2017–18
Ngày thiGiải đấuSPFSTổng
14–25/2/2018Thế vận hội Mùa đông 20182
81.61
1
156.65
2
238.26
9–12 February 2018Thế vận hội Olympic 2018 (nội dung đồng đội)1
81.06
2T
15–21/1/2018Giải vô địch châu Âu 20182
78.57
2
154.29
2
232.86
10–12/11/2017Cúp NHK 20171
79.99
1
144.40
1
224.39
20–22/10/2017Cúp Rostelecom 20171
80.75
1
150.46
1
231.21
7/10/2017Giải Nhật Mở rộng 20171
152.08
1T
21–23/9/2017CS Cúp Ondrej Nepela 20171
80.00
1
146.72
1
226.72
Mùa giải 2016–17
Ngày thiGiải đấuSPFSTổng
20–23/4/2017Cúp đồng đội thế giới ISU 20171
80.85
1
160.46*
2T/1P
241.31*
29/3 – 2/4/2017Giải vô địch thế giới 20171
79.01
1
154.40
1
233.41
25–29/1/2017Giải vô địch châu Âu 20171
78.92
1
150.79
1
229.71
20–26/12/2016Giải quốc gia Nga 20171
80.08
1
153.49
1
233.57
8–11/12/2016Chung kết Grand Prix 2016–171
79.21
1
148.45
1
227.66
11–13/11/2016Cúp Pháp 20161
78.52
1
143.02
1
221.54
28–30 October 2016Skate Canada International 20161
76.24
1
144.41
1
220.65
1 October 2016Giải Nhật Mở rộng 20161
147.07
2T
Mùa giải 2015–16
Ngày thiGiải đấuSPFSTổng
22–24/4/2016Cúp Đồng đội 20161
77.56
1
151.55
2T/1P
28/3 – 3/4/2016Giải vô địch thế giới 20163
73.76
1
150.10
1
223.86
26–31/1/2016Giải vô địch châu Âu 20161
72.55
1
142.90
1
215.45
22–27/12/2015Giải quốc gia Nga 20161
79.44
1
155.44
1
234.88
10–13/12/2015Chung kết Grand Prix 2015–161
74.58
1
147.96
1
222.54
20–22/11/2015Cúp Rostelecom 20153
67.03
1
139.73
2
206.76
23–25/10/2015Skate America 20151
70.92
2
135.09
1
206.01
1–3/10/2015CS Cúp Ondrej Nepela 20151
63.68
2
120.26
1
183.94

Cấp độ thiếu niên

Medvedeva tại Chung kết Grand Prix Thiếu niên 2014–15
Evgenia Medvedeva thi đấu tại Giải vô địch Thiếu niên thế giới

Kỷ lục thế giới cũ dưới hệ thống chấm điểm cũ được in đậm. Điểm cá nhân cao nhất được in nghiêng.

Mùa giải 2014–15
Ngày thiGiải đấuCấp độSPFSTổng
2–8/3/2015Giải vô địch Thiếu niên thế giới 2015Thiếu niên1
68.48
1
124.49
1
192.97
4–7/2/2015Giải Thiếu niên quốc gia Nga 2015Thiếu niên1
70.95
1
134.10
1
205.05
24–28/12/2014Giải quốc gia Nga 2015Trưởng thành3
72.57
3
137.24
3
209.81
11–14/12/2014Chung kết Grand Prix Thiếu niên 2014–15Thiếu niên1
67.09
1
123.80
1
190.89
3–7/9/2014JGP Cộng hòa Séc 2014Thiếu niên2
55.92
2
115.20
1
171.12
20–24/8/2014JGP Pháp 2014Thiếu niên1
61.12
1
118.43
1
179.55
Mùa giải 2013–14
Ngày thiGiải đấuCấp độSPFSTổng
10–16/3/2014Giải vô địch Thiếu niên thế giới 2014Thiếu niên3
63.72
3
114.71
3
178.43
26/2 – 2/3/2014Cúp Chung kết Nga 2014
thi nội địa
Trưởng thành2
66.05
2
124.52
2
190.57
23–25/1/2014Giải Thiếu niên quốc gia Nga 2014Thiếu niên4
63.25
4
120.45
4
183.70
24–26/12/2013Giải quốc gia Nga 2014Trưởng thành8
62.19
8
119.67
7
181.86
5–6/12/2013Chung kết Grand Prix Thiếu niên 2013–14Thiếu niên3
58.75
5
104.93
3
163.68
18–20/10/2013Ice Star 2013Thiếu niên1
62.12
1
118.01
1
180.13
20–22/9/2013JGP Ba Lan 2013Thiếu niên1
61.61
1
118.35
1
179.96
29–30/8/2013JGP Latvia 2013Thiếu niên3
55.17
1
114.35
1
169.52
Mùa giải 2012–13
Ngày thiGiải đấuCấp độSPFSTổng
2–3/2/2013Giải Thiếu niên quốc gia Nga 2013Thiếu niên5
61.35
4
118.84
4
180.19
Mùa giải 2011–12
Ngày thiGiải đấuCấp độSPFSTổng
5–7/2/2012Giải Thiếu niên quốc gia Nga 2012Thiếu niên7
54.86
7
103.64
6
158.50
26–27/12/2011Giải quốc gia Nga 2012Trưởng thành11
53.21
8
108.53
8
161.74
Mùa giải 2010–11
Ngày thiGiải đấuCấp độSPFSTổng
2–4/2/2011Giải Thiếu niên quốc gia Nga 2011Thiếu niên13
42.57
12
88.93
12
131.50

Tham khảo

Liên kết ngoài

Kỷ lục thế giới (trước mùa giải 2018–19)
Tiền nhiệm:
Mao Asada
Bài thi ngắn đơn nữ
9/12/2016 – 21/2/2018
Kế nhiệm:
Alina Zagitova
Tiền nhiệm:
Yuna Kim
Bài thi tự do đơn nữ
2/4/2016 – 1/7/2018
Kế nhiệm:
Hệ thống điểm thưởng GOE thay đổi.
Tiền nhiệm:
Yuna Kim
Điểm tổng đơn nữ
27/1/2017 – 1/7/2018
Kế nhiệm:
Hệ thống điểm thưởng GOE thay đổi.
Kỷ lục thế giới cấp thiếu niên (trước mùa giải 2018–19)
Tiền nhiệm:
Elena Radionova
Bài thi ngắn đơn nữ cấp thiếu niên
13/12/2014 – 16/9/2016
Kế nhiệm:
Polina Tsurskaya

Bản mẫu:Grand Slam in figure skating