Hamilton (lớp tàu tuần tra)

Lớp tàu tuần duyên hạng nặng của Hoa Kỳ

Lớp tàu tuần duyên Hamilton là lớp tàu lớn nhất của lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ cho đến khi được thay thế bằng lớp tàu tuần duyên Legend,và lớp tàu phá băng Polar. Ký hiệu phân loại thân tàu có tiền tố là WHEC (High Endurance Cutter - Tàu tuần duyên hạng nặng). Lớp tàu này được gọi là lớp Hamilton theo tên tàu đầu tiên trong số chúng, đôi khi còn được gọi là "Lớp Bộ trưởng" vì hầu hết các tàu trong lớp này được đặt theo tên các cựu Bộ trưởng Ngân khố Hoa Kỳ (trừ các tàu mang tên Jarvis, MunroMidgett).

USCG photo of USCGC Hamilton (WHEC-715)
USCGC Hamilton (WHEC-715), tàu dẫn đầu lớp Hamilton
Khái quát lớp tàu
Tên gọiLớp Hamilton
Xưởng đóng tàuAvondale Shipyards
Lớp trướcLớp tàu tuần duyên Treasury
Lớp sauLớp tàu tuần duyên Legend[1]
Thời gian hoạt động1965 – nay
Dự tính12
Hoàn thành12
Đang hoạt động12 (2 Hoa Kỳ, 2 Bangladesh, 2 Nigeria, 3 Philippines, 1 Sri Lanka, 2 Việt Nam)
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàuTàu tuần duyên hạng nặng
Trọng tải choán nước3,250 metric tons
Chiều dài378 ft (115 m)
Sườn ngang43 ft (13 m)
Mớn nước15 ft (4,6 m)
Công suất lắp đặt
  • 2 × 550KW GM 8-645 diesel
  • 1 × 500KW Solar Model 101506-2001 turbine khí
Động cơ đẩy
  • Hệ thống CODOG
  • 2 × Fairbanks-Morse 38TD8-1/8-12 12-cylinder động cơ diesel công suất 7.000 hp (5.200 kW) va 2 × Pratt & Whittney FT4A-6 động cơ turbine khí công suất 36.000 hp (27.000 kW)
Tốc độ29 kn (54 km/h; 33 mph)
Tầm xa14.000 nmi (26.000 km; 16.000 mi)
Tầm hoạt động45 ngày
Thủy thủ đoàn tối đa167 (lên đến 186)
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • AN/SPS-40E Air Search Radar
  • AN/SPS-78 Surface Search Radar
  • AN/WLR-1H Electronic Support Surveillance Equipment
  • MK 92 Fire Control System
  • TACAN
Tác chiến điện tử và nghi trang2 × MK 36 SRBOC launcher system
Vũ khí
  • 1 × OTO Melara Mark 75 76 mm/62 caliber naval gun
  • 2 × 25 mm Mk38
  • 1 × MK 15 Block 1 20 mm Phalanx CIWS
  • 6 ×.50 caliber machine guns
Máy bay mang theo1 × MH-65 Helicopter
Hệ thống phóng máy baySàn đáp và Hangar
Rush, khoảng năm 1985, với pháo chính hệ cũ cỡ 5 inch / 38, thiếu radar và các nâng cấp Phalanx CIWS.

Thiết kế

Lớp tàu Hamilton được thiết kế để trở thành một hệ tàu cơ sở linh hoạt cao có khả năng thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, bao gồm thực thi pháp luật hàng hải, tìm kiếm và cứu nạn, nghiên cứu hải dương học và các hoạt động quốc phòng.[2] Do độ bền và khả năng của chúng, các tàu lớp Hamilton thường được triển khai với các Nhóm tác chiến tàu sân bay.[3] Chúng được chế tạo với thân tàu bằng thép hàn và cấu trúc thượng tầng bằng nhôm. Thân tàu được thiết kế với tiết diện chữ V, và qua quá trình thử nghiệm trong bể chứa, thân tàu được kỳ vọng sẽ tồn tại và nổi lâu hơn sau khi bị hư hại.[4] Chúng được cung cấp hệ thống động lực dạng CODOG (Combined diesel or gas - diesel hoặc turbine khí kết hợp) bao gồm 2 động cơ diesel và 2 động cơ turbine khí, và có các chân vịt có thể điều khiển được. Các tàu lớp Hamilton là những tàu quân sự đầu tiên của Hoa Kỳ sử dụng hệ thống động lực dạng CODOG. Chúng cũng được trang bị sàn đáp trực thăng, nhà chứa máy bay có thể thu vào và các phương tiện hỗ trợ triển khai trực thăng.

Trang bị

Lớp Hamilton được thiết kế và chế tạo trong Chiến tranh Lạnh, do đó ban đầu chúng được trang bị cho tác chiến chống ngầm (Anti-submarine warfare - ASW), với khả năng tìm kiếm, theo dõi và tiêu diệt tàu ngầm của đối phương.[5] Những tàu lớp Hamilton đầu tiên được chế tạo với trang bị súng hải pháo 5 "/ 38, hai cối 81 mm, hai súng máy cỡ nòng.50, hai hệ thống bom phóng chống ngầm MK 10 Hedgehogs, hai hệ thống ống phóng ngư lôi MK 32 và hệ thống mồi nhử chống ngư lôi Nixie. Trong thập niên 1980 và 1990, các tàu lớp Hamilton đã được hiện đại hóa theo chương trình Cải tạo và Hiện đại hóa Hạm đội (Fleet Rehabilitation and Modernization - FRAM), như là một giải pháp đơn giản với chi phí thấp. Chương trình đã thay thế hải pháo 5 "/ 38 bằng loại hải pháo MK 75 76 mm, nâng cấp ống phóng ngư lôi mặt nước MK 32 lên Mod 7, lắp đặt các bệ phóng mồi bẫy MK 36 SRBOC và bộ tác chiến điện tử AN / SLQ-32, và nâng cấp sonar và các radar tìm kiếm trên không và mặt nước trên lớp tàu này.[6] Sau chương trình FRAM, một hội đồng chung của Hải quân / Tuần duyên quyết định sẽ thực hiện nâng cấp thêm vũ khí cho lớp Hamilton, bao gồm việc lắp đặt tên lửa chống hạm Harpoon và hệ thống phòng thủ tầm gần MK 15 Phalanx CIWS. Mặc dù vậy, chỉ duy nhất có USCGC Mellon từng bắn một tên lửa Harpoon vào tháng 1 năm 1990.[7] Sau khi Liên Xô sụp đổ, ban lãnh đạo chung của Hải quân / Tuần duyên quyết định do không còn mối đe dọa quân sự nữa, nên hệ thống vũ khí tên lửa chống hạm và chống ngầm trên lớp Hamilton được loại bỏ.[8] Thay vào đó, chúng được trang bị các pháo tự động MK 38 25 mm ở cả hai bên mạn tàu. Hiện tại các tàu lớp Hamilton được trang bị hệ thống chỉ huy và kiểm soát SeaWatch, kết hợp điều hướng, chiến thuật, giám sát và thông tin liên lạc vào một bối cảnh tình huống, thay thế cho Hệ thống chỉ huy và kiểm soát kiểu cũ đã lỗi thời.[9] Khả năng phòng thủ của tàu do các bệ phóng MK 36 và hệ thống Phalanx CIWS đảm nhiệm.

Lịch sử

Chương trình chế tạo lớp Hamilton được bắt đầu vào thập niên 1960, nhằm thiết kế mẫu tàu trang bị phù hợp các yêu cầu trong cả thời bình lẫn thời chiến của Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ.[10] Chiếc tàu đầu tiên, Hamilton, được khởi đóng tại Nhà máy đóng tàu Avondale vào giữa thập niên 1960 và nó được đưa vào hoạt động vào ngày 18 tháng 3 năm 1967. Ban đầu Tuần duyên Hoa Kỳ dự định chế tạo 36 tàu lớp Hamilton, nhưng sau họ đã giảm số lượng xuống còn 12 tàu.[11]

Trong Chiến tranh Việt Nam, nhiều tàu lớp Hamilton đã tham gia hỗ trợ Chiến dịch Market Time. Chúng tham gia tuần tra bờ biển Nam Việt Nam, kiểm tra các tàu bị nghi ngờ là của Bắc Việt và Việt Cộng, tiến hành các nhiệm vụ yểm trợ bằng hải pháo, và hỗ trợ y tế cho thường dân Nam Việt Nam.[12] Trong suốt quá trình phục vụ, các tàu lớp Hamilton cũng tham gia vào các hoạt động quân sự khác như Chiến dịch Khẩn cấp Fury, Chiến dịch Cảnh giác Sentinel, Chiến dịch Deny Flight và Chiến dịch Tự do Iraq.[13][14][15]

Bắt đầu từ thập niên 1980 và kết thúc vào năm 1992, toàn bộ các tàu lớp Hamilton đã được hiện đại hóa thông qua chương trình FRAM. Chương trình này bao gồm các cập nhật và thay đổi đối với vũ khí, cảm biến, bổ sung nhà chứa máy bay trực thăng, đại tu động cơ và cải thiện khả năng sinh tồn.

Các tàu MidgettMunro được đổi tên thành John MidgettDouglas Munro để cho phép các tàu thuộc lớp Legend mới là MidgettMunro đảm nhận tên cũ của 2 tàu lớp Hamilton.

Vào tháng 3 năm 2007, các tàu lớp HamiltonSherman đã ngăn chặn được tàu đánh cá Gatun mang cờ Panama trong vùng biển quốc tế và tịch thu được 20 tấn (20 tấn Anh) cocaine, với giá trị ước tính khoảng 600 triệu USD. Đây là vụ bắt giữ ma túy trên biển lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.[16]

Danh sách tàu (theo căn cứ cuối cùng)

Tên con tàuThânMã hiệuHạ thủyGiới thiệuBiên chếNgừng hoạt độngTình trạng
Kodiak, Alaska:
Douglas MunroWHEC-724Nhà máy đóng tàu Avondale18 tháng 2 năm 19705 tháng 12 năm 197027 tháng 9 năm 197124 tháng 4 năm 2021Được chuyển giao cho Hải quân Sri Lanka vào ngày 26 tháng 10 năm 2021 với tên gọi P627
San Diego, California:
BoutwellWHEC-719Ngày 12 tháng 12 năm 196617 tháng 6 năm 196724 tháng 6 năm 196816 tháng 3, 2016Được chuyển giao cho Hải quân Philippines vào ngày 21 tháng 7 năm 2016 với tên gọi BRP Andres Bonifacio (FF-17)
ChaseWHEC-71826 tháng 10 năm 196620 tháng 5 năm 196711 tháng 3 năm 196829 tháng 3 năm 2011Được chuyển giao cho Hải quân Nigeria vào ngày 13 tháng 5 năm 2011 với tên gọi NNS Thunder (F90)
HamiltonWHEC-715Tháng 1 năm 196518 tháng 12 năm 196518 tháng 3 năm 196728 tháng 3 năm 2011Được chuyển giao cho Hải quân Philippines ngày 13 tháng 5 năm 2011 với tên gọi BRP Gregorio del Pilar (FF-15)
Honolulu, Hawaii:
JarvisWHEC-7259 tháng 9 năm 197024 tháng 4 năm 19714 tháng 8 năm 19722 tháng 10 năm 2012Được chuyển giao cho Hải quân Bangladesh vào ngày 23 tháng 5 năm 2013 với tên gọi BNS Somudra Joy (F-28)[17]
RushWHEC-72323 tháng 10 năm 196716 tháng 11 năm 19683 tháng 7 năm 19693 tháng 2 năm 2015Được chuyển giao cho Hải quân Bangladesh vào ngày 6 tháng 5 năm 2015 với tên gọi BNS Somudra Avijan (F-29)[18]
MorgenthauWHEC-72217 tháng 7 năm 196710 tháng 2 năm 196810 tháng 3 năm 196918 tháng 4 năm 2017Được chuyển giao cho Cảnh sát biển Việt Nam ngày 25 tháng 5 năm 2017 với tên gọi CSB 8020 [19]
ShermanWHEC-72025 tháng 1 năm 19673 tháng 9 năm 196823 tháng 8 năm 196829 tháng 3 năm 2018Được chuyển giao cho Hải quân Sri Lanka vào ngày 27 tháng 8 năm 2018, được hoạt động trở lại vào ngày 6 tháng 6 năm 2019 với tên gọi SLNS Gajabahu (P626)[20][21]
Charleston, Nam Carolina:
DallasWHEC-7167 tháng 2 năm 19661 tháng 10 năm 196611 tháng 3 năm 196830 tháng 3 năm 2012Được chuyển giao cho Hải quân Philippines vào ngày 22 tháng 5 năm 2012 với tên gọi BRP Ramon Alcaraz (FF-16) [22]
GallatinWHEC-72117 tháng 4 năm 196718 tháng 11 năm 196720 tháng 12 năm 1968Ngày 31 tháng 3 năm 2014Được chuyển giao cho Hải quân Nigeria vào ngày 7 tháng 5 năm 2014 với tên gọi NNS Okpabana (F93) [23]
Seattle, Washington:
MellonWHEC-71725 tháng 7 năm 196611 tháng 2 năm 19679 tháng 1 năm 196820 tháng 8 năm 2020Được đánh dấu để chuyển giao cho Lực lượng Hải quân Hoàng gia Bahrain
John MidgettWHEC-7265 tháng 4 năm 19714 tháng 9 năm 197117 tháng 3 năm 1972Năm 2020Được chuyển giao cho Cảnh sát biển Việt Nam khi ngừng hoạt động vào năm 2021, với tên gọi CSB 8021

Các bên khai thác

Bên khai thác tiềm năng

  •  Hải quân Bahrain[24]

Chú thích

Tham khảo

Bản mẫu:Lớp tàu tuần duyên Hamilton