Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa)

Quân đoàn III là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải - Lục - Không quân, là một trong bốn Quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là Quân đoàn có nhiệm vụ kiểm soát địa bàn gồm các tỉnh xung quanh Đô thành Sài Gòn, vì vậy giữ vai trò hết sức trọng yếu đối với Chính thể Việt Nam Cộng hòa. Cuối tháng 4 năm 1975, sau khi vô hiệu hóa phòng tuyến Xuân Lộc, lực lượng Quân đội nhân dân Việt NamQuân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thực hiện chiến dịch lớn cuối cùng, đánh tan những lực lượng cuối cùng của Quân đoàn III phòng thủ Sài Gòn, kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam.

QUÂN ĐOÀN III
Việt Nam Cộng hòa
Huy hiệu
Hoạt động1959 1975
Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Phục vụ Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Quân chủngHỗn hợp
Phân loạiChủ lực Quân khu
Quy môQuân đoàn
Bộ phận của Bộ Tổng Tham mưu
Bộ chỉ huyBiên Hòa, Việt Nam Cộng hòa
Khẩu hiệuChiến thắng - Xây dựng
Tham chiếnTrận Mậu Thân
Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975
Các tư lệnh
Chỉ huy
nổi tiếng
Thái Quang Hoàng
Lê Văn Nghiêm
Tôn Thất Đính
Trần Thiện Khiêm
Lâm Văn Phát
Cao Văn Viên
Đỗ Cao Trí
Dư Quốc Đống
Nguyễn Văn Toàn
Huy hiệu
Quân kỳ
Bản đồ 4 Quân khu Việt Nam Cộng hòa
Bản đồ các tỉnh thuộc Quân khu III

Lịch sử hình thành

Tiền thân của Vùng III Chiến thuật là Đệ nhất Quân khu, được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952[1], là một trong 4 Quân khu của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Vùng kiểm soát của Đệ nhất Quân khu, tương ứng với vùng Nam phần Việt Nam, từ Bình Thuận vào đến Cà Mau. Tư lệnh đầu tiên là Đại tá Lê Văn Tỵ. Địa bàn Đệ nhất Quân khu gần như được giữ nguyên trong cuộc điều chỉnh năm 1954.[2]

Sau khi Chính thể Việt Nam Cộng hòa chính thức thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1956, toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát được chia thành 6 Quân khu: Đệ nhất Quân khu (đông Nam phần), Đệ nhị Quân khu (Trung phần), Đệ tam Quân khu (Kontum, Pleiku, Bình Định, Phú Yên), Đệ tứ Quân khu (nam cao nguyên Trung phần và phía nam duyên hải Trung phần), Đệ ngũ Quân khu (tây Nam phần) và Quân khu Thủ đô (Sài Gòn, Gia Định, Long An). Địa bàn của Đệ nhất Quân khu (cũ) được tách làm 3 phần gồm Đệ nhất Quân khu (mới) (gồm các tỉnh Gia Định, Phước Long, Bình Tuy, Bình Dương, Biên Hòa, Tây Ninh, Phước Tuy, Long Khánh, Bình Long), Đệ ngũ Quân khu (gồm các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên, Đặc khu Côn Sơn) và Quân khu Thủ đô (Sài Gòn).[3] Tuy nhiên, mãi đến ngày 14 tháng 2 năm 1957, Đại tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam Cộng hòa mới ký Công vụ lệnh số 146/TTM/VP chỉ định Chỉ huy trưởng 3 Quân khu kể trên, gồm: Trung tướng Dương Văn Minh, Chỉ huy trưởng Quân khu Thủ đô; Đại tá Nguyễn Văn Y,[4] Chỉ huy trưởng Đệ nhất Quân khu, Đại tá Nguyễn Văn Là, Chỉ huy trưởng Đệ ngũ Quân khu. Trung tướng Dương Văn Minh đồng thời kiêm nhiệm chức Tư lệnh 3 Quân khu trên.[5]

Bộ tư lệnh Quân đoàn III được thành lập lâm thời vào ngày 1 tháng 3 năm 1959 tại Biên Hòa do Trung tướng Thái Quang Hoàng làm Tư lệnh đầu tiên, giữa tháng 4 kiêm Tư lệnh Quân khu Thủ đô, thay tướng Dương Văn Minh chuyển sang làm Tổng thư ký Thường trực Quốc phòng. Mãi hơn một năm sau, Quân đoàn mới chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 5 năm 1960, với nòng cốt là Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, và Sư đoàn 21 Bộ binh.

Ngày 1 tháng 6 năm 1961, Tổng thống Diệm đã ra sắc lệnh cải tổ các Quân khu thành các Vùng chiến thuật, theo đó Đệ nhất và Đệ ngũ Quân khu được sáp nhập để thành lập Vùng 3 Chiến thuật[6]. Quân khu Thủ đô được đổi thành Biệt khu Thủ đô, mở rộng địa bàn thêm tỉnh Gia Định, trực thuộc Vùng 3 chiến thuật. Tỉnh Côn Sơn được tách ra, trực thuộc vào Bộ Tư lệnh Hải quân.[7] Từ đó Quân đoàn có danh hiệu liên hợp Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến thuật.

Địa bàn của Vùng 3 được tổ chức thành các Khu Chiến thuật:
Khu chiến thuật Đông: gồm các tỉnh Biên Hòa, Phước Tuy, Bình Tuy, Long Khánh, Phước Long, Bình Long, Bình Dương, Tây Ninh, Phước Thành.
Khu chiến thuật Tiền Giang: gồm các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường, Kiến Hòa.
Khu chiến thuật Hậu Giang: gồm các tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên.

Mỗi khu Chiến thuật là địa bàn hoạt động của một Sư đoàn. Các tỉnh cũng được tổ chức về mặt Quân sự thành các Tiểu khu chiến thuật, đứng đầu là một sĩ quan cấp Đại tá hoặc Trung tá với chức danh Tỉnh trưởng (hoặc Thị trưởng) kiêm Tiểu khu trưởng, trực tiếp chỉ huy và điều động các đơn vị Địa phương quân và các Chi khu (trong đó có các Trung đội Nghĩa quân). Quân số của mỗi Tiểu khu tương đương với quân số từ một đến hai Trung đoàn bộ binh nhưng về mặt trang bị không bằng các đơn vị chủ lực. Vì vậy khi cần thiết sẽ được sự hỗ trợ của các Sư đoàn Bộ binh. Do đó, khi phối hợp tác chiến Tiểu khu trưởng dưới quyền của Tư lệnh Sư đoàn.

Lãnh thổ của Vùng 3 chiến thuật khi đó tương ứng với khu vực rộng lớn bao gồm miền đông và tây Nam phần, gây ra rất nhiều khó khăn trong kiểm soát địa bàn. Do nhu cầu cần có thêm các đơn vị chủ lực nữa để hỗ trợ và chia sẻ vùng hoạt động, Tổng thống Ngô Đình Diệm quyết định thành lập thêm Sư đoàn 9 vào ngày 1 tháng 1 năm 1962 và Sư đoàn 25 Bộ binh vào ngày 1 tháng 7 năm 1962. Ngày 1 tháng 1 năm 1963, khi Quân đoàn IV và Vùng 4 Chiến thuật được thành lập từ phần lãnh thổ miền tây Nam phần, với nòng cốt là các sư đoàn 7, 9 và 21. Phần lãnh thổ trách nhiệm của Quân đoàn III và Vùng 3 chiến thuật chỉ còn 11 tỉnh và một Đặc khu thuộc miền đông Nam phần, tổ chức thành 3 Khu chiến thuật: Khu Chiến thuật 31 (gồm các tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An), Khu chiến thuật 32 (gồm các tỉnh Bình Long, Phước Long, Bình Dương) và Khu chiến thuật 33 (gồm các tỉnh Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Biên Hòa, Biệt khu Thủ đô).

Đảo chính và chống đảo chính

Do vai trò hết sức quan trọng, bảo vệ đầu não Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nên Quân đoàn được xem như cái chốt quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của các cuộc đảo chính. Vì vậy, khi cuộc đảo chính 1960 nổ ra, các chỉ huy quân đảo chính lập tức bắt giữ tướng Thái Quang Hoàng, vô hiệu hóa Bộ tư lệnh Quân đoàn III và Quân khu Thủ đô. Dù sau đó, các lực lượng dưới quyền Quân đoàn đã tự động tổ chức phản kích và đánh bại quân đảo chính, Tổng thống Diệm vẫn cáo buộc tướng Thái Quang Hoàng không đủ năng lực để phản ứng với cuộc đảo chính, vì thế đã điều chuyển ông sang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Đại học Quân sự và kiêm Quân trấn trưởng Đà Lạt.

Từ sau vụ binh biến năm 1962, Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu đã xếp đặt tướng Tôn Thất Đính, một tướng lĩnh trẻ và được cho là trung thành, về giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Tổng trấn Đô thành Sài Gòn, đồng thời giao giữ vai trò quan trọng trong kế hoạch phản đảo chính nếu đảo chính nổ ra lần nữa. Tuy nhiên, tướng Đính sớm thay đổi và đứng về nhóm đảo chính, trở thành một trong những thành viên chủ chốt khi đảo chính thực sự nổ ra và kết thúc với cái chết bi thảm của Tổng thống Diệm và Cố vấn Nhu.

Không đầy 3 tháng sau, một cuộc "Chỉnh lý" do tướng Nguyễn Khánh cầm đầu, được thực hiện với sự tham gia của tân Tư lệnh Quân đoàn III Trần Thiện Khiêm đã gạt bỏ quyền lực của các tướng lĩnh chủ chốt trong cuộc đảo chính trước đó, mở đường cho tướng Nguyễn Khánh lên nắm quyền và Thời kỳ Loạn tướng. Ngày 1 tháng 7 năm 1970, Vùng 3 chiến thuật được cải danh thành Quân khu 3.

Mậu Thân 1968

Mùa hè đỏ lửa

Mở đầu và kết thúc của thất bại cuối cùng

Trụ sở Bộ Tư lệnh Quân đoàn III đặt tại Biên Hòa. Sau năm 1975 nơi này được trưng dụng làm trụ sở Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh Đồng Nai.

Biên chế tổ chức

Dưới đây là biên chế tổ chức của Quân đoàn III vào đầu năm 1975.

  • Bộ Tư lệnh:
  • Đơn vị tác chiến trực thuộc:
  • Đơn vị tác chiến phối thuộc:
  • Tiểu khu, Đặc khu trực thuộc:

Pháo binh Quân đoàn[12]

SttHọ và TênCấp bậCChức vụĐơn vịChú thích
1
Lê Văn Trang[13]
Võ bị Đà Lạt K10
Đại tá
Chỉ huy trưởng
Bộ Chỉ huy
Pháo binh Quân đoàn[14]
2
Hồ Văn Tâm[15]
Võ khoa Thủ Đức K12
Chỉ huy phó
nt
3
Vũ Ngọc Thành
Võ bị Đà Lạt K11
Trung tá
Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 104 Cơ động
(Đại bác 175 ly)
4
Lê Xước
Võ khoa Thủ Đức K6
Thiếu tá
Tiểu đoàn 2 Phòng không
5
Trần Duy Lượng
Trung tá
Tiểu đoàn 46 (155 ly)
6
Hoa Hải Thọ
Võ bị Đà Lạt K11
Tiểu đoàn 61 (105 ly)
7
Nguyễn Đạt Sinh[16]
Võ khoa Thủ Đức K4
Chỉ huy trưởng
Bộ Chỉ huy Pháo binh
Biệt khu Thủ đô
Điều hành Pháo binh Tiểu khu Gia Định và Pháo binh của các đơn vị khác đóng quân trong địa bàn Biệt khu Thủ đô

Pháo binh Tiểu khu[17]

SttHọ và TênCấp bậcChức vụĐơn vịChú thích
1
Lê Quang Đạt
Võ khoa Thủ Đức K5
Thiếu tá
Chỉ huy trưởng
Tiểu khu Bình Tuy
2
Lê Ngọc Bửu
Tiểu khu Phước Tuy
3
Trần Đức Hiệu
Võ khoa Thủ Đức K7
Tiểu khu Long Khánh
4
Đặng Hữu Bá
Võ khoa Thủ Đức K7
Tiểu khu Biên Hòa
5
Nguyễn Ngọc Ánh
Võ bị Đà Lạt K18
Tiểu khu Gia Định
6
Lê Tiến Khai
Tiểu khu Long An
7
Phan Văn Khải
Đặc biệt Đồng Đế K1
Tiểu khu Hậu Nghĩa
8
Hồ Huệ Phú
Võ bị Đà Lạt K13
Tiểu khu Bình Dương
9
Lai Tỷ
Tiểu khu Bình Long
10
Đinh Văn Nê
Tiểu khu Phước Long
11
Nguyễn Quang Bình
Tiểu khu Tây Ninh

Chỉ huy các đơn vị trực thuộc và phối thuộc

SttHọ và TênCấp bậcChức vụĐơn vịChú thích
1
Lê Minh Đảo
Võ bị Đà Lạt K10
Lê Xuân Mai[18]
Võ bị Đà Lạt K4
Thiếu tướng
Đại tá
Tư lệnh
Phó tư lệnh
Sư đoàn 18 Bộ binh
Bộ Tư lệnh đặt tại Thị xã Xuân Lộc, Long Khánh
2
Lê Nguyên Vỹ
Võ bị Địa phương
Trung Việt Huế K1

Trần Văn Thoàn[19]
Võ bị Đà Lạt K10
Chuẩn tướng
Đại tá
Tư lệnh
Phó tư lệnh
Sư đoàn 5 Bộ binh
Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Lai Khê, Bình Dương
3
Lý Tòng Bá
Võ bị Đà Lạt K6
Trương Thắng Chức[20]
Võ bị Móng Cái
Chuẩn tướng
Đại tá
Tư lệnh
Phó tư lệnh
Sư đoàn 25 Bộ binh
Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Đồng Dù, Củ Chi, Hậu Nghĩa
4
Lưu Yểm[21]
Sĩ quan Bổ túc Pháp
Đại tá
Tỉnh trưởng
Tiểu khu trưởng
Biên Hòa
Biên Hòa[22]
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại Biên Hòa
5
Nguyễn Văn Của[23]
Võ khoa Thủ Đức K3[24]
Bình Dương
Phú Cường
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại Phú Cường
6
Nguyễn Công Thành
Bình Long
An Lộc
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại An Lộc
7
Trần Bá Thành[25]
Võ khoa Thủ Đức K4
Bình Tuy
Hàm Tân
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại Hàm Tân
8
Châu Văn Tiên[26]
Võ khoa Thủ Đức K1
Gia Định
Gia Định[27]
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại xã Bình Hòa, quận Gò Vấp.
9
Tôn Thất Soạn[28]
Võ khoa Thủ Đức K4
Hậu Nghĩa
Khiêm Cường
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại Khiêm Cường
10
Trần Vĩnh Huyến[29]
Võ bị Đà Lạt K4
Long An
Tân An
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại Tân An
11
Phạm Văn Phúc[30]
Võ bị Đà Lạt
Long Khánh
Xuân Lộc
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại Xuân Lộc
12
Nguyễn Thông Thành
Phước Long
Phước Bình
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại Phước Bình
13
Phạm Ngọc Lân[31]
Võ bị Đà Lạt K5
Phước Tuy
Phước Lễ
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại Phước Lễ
14
Bùi Đức Tài[32]
Võ khoa Thủ Đức K2
Tây Ninh
Tây Ninh
Trung tâm Hành chính Tỉnh và Bộ Chỉ huy Tiểu khu đặt tại Tây Ninh
16
Vũ Duy Tạo[33]
Võ bị Huế K2
Thị trưởng
Đặc khu trưởng[34]
Đặc khu Vũng Tàu
Vũng Tàu
Trung tâm Hành chính Thị xã và Bộ Chỉ huy Đặc khu đặt tại Thị xã Vũng Tàu
17
Huỳnh Bá Tính
Võ khoa Thủ Đức K1
Chuẩn tướng
Tư lệnh
Sư đoàn 3 KQ[35]
Đơn vị phối thuộc
18
Phan Phụng Tiên
Võ khoa Nam Định
Đinh Thạch On[36]
Võ khoa Thủ Đức K1
Sĩ quan Hoa Tiêu K1
Chuẩn tướng
Đại tá
Tư lệnh
Phó tư lệnh
Sư đoàn 5 KQ[37]
19
Trần Quang Khôi
Võ bị Đà Lạt K6
Chuẩn tướng
Tư lệnh
Lữ đoàn 3
Kỵ binh[38]
20
Vũ Đình Đào[39]
Hải quân Nha Trang K3
Chuẩn tướng
Tư lệnh
Hải khu 3[40]
21
Trịnh Quang Xuân[41]
Hải quân Brest K3
Đại tá
Tư lệnh
Giang khu 3[42]
22
Nguyễn Thành Chuẩn[43]
Võ bị Đà Lạt K6
Chỉ huy trưởng
Biệt động quân
Quân khu 3[44]

Tư lệnh Quân đoàn qua các thời kỳ

SttHọ và tênCấp bậc tại nhiệmThời gian tại chứcChú thích
1
Thái Quang Hoàng
Võ bị Tông Sơn Tây
Trung tướng
3/1959-10/1959
Chức vụ sau cùng: Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan (1965)
2
Nguyễn Ngọc Lễ
Võ bị Lục quân Pháp
Trung tướng
(1956)
10/1959-5/1961
Chức vụ sau cùng: Chánh thẩm Tòa án Quân sự Mặt trận Sài Gòn (1964)
3
Lê Văn Nghiêm
Võ bị Lục quân Pháp
Thiếu tướng
(1955)
5/1961-12/1962
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Giám đốc Nha Động viên Bộ Quốc phòng (1965)
4
Tôn Thất Đính
Võ bị Huế K1
Thiếu tướng
(1958)
Trung tướng
(1963)
12/1962-1/1964
Chức vụ sau cùng: Thượng nghị sĩ (1967-1975)
5
Trần Thiện Khiêm
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Trung tướng
(1963)
1/1964-2/1964
Chức vụ sau cùng: Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa (1969-1975)
6
Lâm Văn Phát
Võ Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Thiếu tướng
(1963)
2/1964-4/1964
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô (1975)
7
Trần Ngọc Tám
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Thiếu tướng
(1958)
Trung tướng
(4/1964)
4/1964-10/1964
Chức vụ sau cùng: Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan (1972-1974)
8
Cao Văn Viên
Võ bị Địa phương
Cap Saint Jacques
Thiếu tướng
(3/1964)
10/1964-10/1965
Chức vụ sau cùng: Đại tướng (1967), Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (1965-1975)
9
Nguyễn Bảo Trị
Võ khoa Nam Định
Thiếu tướng
10/1965-6/1966
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn
10
Lê Nguyên Khang
Võ khoa Nam Định
Thiếu tướng
(1965)
6/1966-8/1968
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Phụ tá Tổng tham mưu trưởng, đặc trách hành quân
1
Đỗ Cao Trí
Võ bị Nước Ngọt
Vũng Tàu
Trung tướng
(1963)
8/1968-2/1971
Tử nạn trực thăng ngày 23/2/1971. Được truy thăng Đại tướng
12
Nguyễn Văn Minh
Võ bị Đà Lạt K4
Thiếu tướng
(1968)
Trung tướng
(1972)
2/1971-10/1973
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô
13
Phạm Quốc Thuần
Võ bị Đà lạt K5
Trung tướng
(1971)
10/1973-10/1974
Chức vụ sau cùng: Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế
14
Dư Quốc Đống
Võ bị Đà Lạt K3
Trung tướng
(1970)
10/1974-1/1975
Chức vụ sau cùng: Phụ tá Tổng tham mưu trưởng
15
Nguyễn Văn Toàn
Võ bị Đà Lạt K5
Trung tướng
(1974)
1/1975-30/4/1975
Tư lệnh cuối cùng

Các đơn vị thuộc dụng Quân đoàn III tháng 4/1975

Chú thích

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011) Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa