Thảo luận:LGBT làm cha mẹ

Bình luận mới nhất: 4 tháng trước bởi 1.55.157.9 trong đề tài Lỗi thời
Thảo luận về chủ đề này có khả năng làm bạn nổi nóng. Xin hãy giữ bình tĩnh và có một cái đầu lạnh khi nêu ý kiến của mình tại đây.

Bất đồng biên tập tháng 7 2015

Nội dung được xóa bỏ do các nguồn thông tin sai lệch. Các nguồn thông tin trích dẫn [3] [4] [5] [7] được thu thập có từ những năm 1981, 1984, 1986, trước năm 1990, Hoa Kỳ vẫn giữ quan điểm đồng tính là Bệnh, nhưng sau 1990, họ đã loại Đồng Tính ra khỏi danh sách đó, vì thế thông tin trong những năm này là vô giá trị; trích dẫn số [6] (Eminent Psychiatrist Says Homosexuality is a Disorder that Can be Cured)đi ngược lại với những gì Khoa học đã chứng minh, đồng tín không phải bệnh, và không thể chữa.Sstakeshi (thảo luận) 13:03, ngày 26 tháng 10 năm 2013 (UTC)SStakes

Loại năm 1990 là WHO, còn Mỹ thì lọai từ năm 1973 kìa. Do đó lý luận lấy mốc năm của bạn ở trên là vô nghĩa. Hơn nữa "không phải là bệnh" không đồng nghĩa với "làm cha mẹ tốt" (VD: nghiện rượu cũng chả phải bệnh, nhưng chả ai dám nói người cha nát rượu có thể làm một ông bố tốt). Vấn đề con nuôi đồng tính hiện vẫn đang tranh cãi gay gắt chứ hoàn toàn chưa có đồng thuận cao trong giới khoa học.MiG29VN (thảo luận) 11:51, ngày 27 tháng 10 năm 2013 (UTC)

Yêu cầu không được đưa đoạn dài về lời nói của 4 người không biết là ai, không có giá trị khoa học và không được kiểm soát sự thật vào trước khi thảo luận và đạt được đồng thụân với tôi. Tympt (thảo luận) 06:19, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Một số thông tin có nguồn nhưng không rõ tại sao xóa, ví dụ: Bốn người trưởng thành dưới sự nuôi dưỡng của cặp đồng tính đã nộp thư phản đối việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính [7].  A l p h a m a  Talk - Bot - Page 06:34, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Tympt (Tôi yêu mai phương thuý) là rối của Chân trời Công lý, xoá những thông tin có hại cho hôn nhân đồng giới không có gì lạ. Tuởng (thảo luận) 06:36, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Điều vô lý hơn tại sao đoạn ủng hộ thì không có tầm nhìn hẹp mà lại gắn vào đoạn mẫu thuẫn, và đoạn đầu bài rõ ràng có ý kiến cho rằng người đồng tính không phù hợp làm cha mẹ thì không thấy ghi. Bài có vẻ thiên về ủng hộ người đồng giới.  A l p h a m a  Talk - Bot - Page 06:38, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)
Tôi thấy không có lý do hợp lý để xóa đoạn này, 4 người này không phải nhà khoa học nhưng ý kiến của họ đã được nguồn đủ uy tín đưa lên. Đó có thể coi là cái nhìn của người trong cuộc, thứ mà bài viết đang thiếu. Hơn nữa, Tympt chính là một tài khoản rối của Chân trời công lý (xem ở [8]), bẵng đi 1 thời gian anh này tưởng không còn ai nhớ tới mình nên lại giở trò xóa bài như cũ đây. Alphama đã có lời thì tôi sẽ đưa lại đoạn này vào bài, nếu việc xóa thông tin bị lặp lại thì tôi sẽ báo cáo BQV về việc tk rối tiếp tục tái phạm, đồng thời tôi sẽ rà xem còn đoạn nào bị xóa đi khôngÉn nâu (thảo luận) 06:44, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)
Chú ý là tôi chỉ nêu lý do hỏi tại sao đoạn có nguồn (đoạn 1) tại sao xóa chứ không có nói tại sao xóa 4 đoạn.  A l p h a m a  Talk - Bot - Page 07:23, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)
Xem lại thì thấy các đoạn khác bị xóa vì lặp, tôi thấy không có vấn đề gìÉn nâu (thảo luận) 07:29, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)
Bạn lại dựa hơi tôi để lùi sửa à, 2 bạn không ai vừa cả. Tôi khẳng định chỉ với đoạn tôi ghi ở trên không phải với tất cả Bốn người trưởng thành dưới sự nuôi dưỡng của cặp đồng tính đã nộp thư phản đối việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính. Còn đoạn dựa hơi này là không đúng [9]  A l p h a m a  Talk - Bot - Page 07:35, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)
Đoạn 1 mà Alphama nói ở [10] tôi đã xem rồi (đoạn "Các nghiên cứu và phân tích bao gồm các phân tích Bridget Fitzgerald năm 1999..." đúng không), nó bị lỗi copy với đoạn dưới (Alphama có thể xem phiên bản này [11], sẽ thấy đoạn lặp dễ dàng), tôi thấy việc Tympt xóa đoạn này thì không cần bàn cãi. Riêng đoạn 4 người trưởng thành thì chẳng phải bạn cũng nói "Một số thông tin có nguồn nhưng không rõ tại sao xóa, ví dụ: Bốn người trưởng thành dưới sự nuôi dưỡng của cặp đồng tính đã nộp thư phản đối việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính" đó thôi. Bạn công nhận nó có nguồn hợp lệ thì tôi thấy việc xóa là vi phạm quy định, không lẽ suy luận thế là sai?Én nâu (thảo luận) 07:50, ngày 21 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Nên nhớ các trang web rác rất nhiều và nhiều bài viết là do những nhóm hận thù ex-gay đứng đằng sau nó tạo dựng. Do đó những thông tin nhạy cảm yêu cầu phải được xuất phát từ những nguồn uy tín và có kiểm chứng từ các tổ chức uy tín. 4 người này không ai biết lý lịch như thế nào, không phải tổ chức khoa học và thông tin không kiểm chứng được. Nếu cần thiết có thể đưa ra tin nhắn bảo quản viên để lấy ý kiến các thành viên khác.

Ngoài ra tôi cảnh báo các con rối của MiG29VN tiếp tục "ngựa quen đường cũ", thêm hàng loạt các thông tin POV rác (quan điểm, nghiên cứu cá nhân, thiểu số rất nhỏ, mang hệ tư tưởng tôn giáo) cho các nội dung nghiên cứu, phát biểu quan trọng về LGBT mà những nghiên cứu, phát biểu này không được kiểm chứng bởi các tổ chức khoa học uy tín, được nhiều nhà khoa học biết đến, phản biện và đồng thuận để có chỗ đứng và giá trị trong giới khoa học.

Hiện nay, toàn bộ giới khoa học thế giới đều đồng thuận với kết quả về LGBT và khẳng định "Chưa xác định được nghiên cứu đáng tin cậy nào cho kết quả khác". Như vậy, những phát biểu nghiên cứu POV mà các tk rối đưa vào đều la cách "tung hỏa mù" để đánh lừa người đọc, những nội dung này hoàn toàn không xuất hiện trên Wiki Tiếng Anh và trái với quy tắc viết bài của Wikipedia (quan điểm thiểu số, POV được khai triển quá đáng và lấn át quan điểm đa số).Tympt (thảo luận) 05:37, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Tôi đã nói rõ phát biểu của 4 người vô danh trên một trang web rác không đủ để khai triển trong bài, nhưng tài khoản rối Romonovo của MiG vẫn tiếp tục "bút chiến" bất chấp yêu cầu thảo luận và đồng thuận.Tympt (thảo luận) 07:46, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Thông tin có nguồn rõ ràng thì không ai có quyền xóa, bất kể bạn nghĩ nó uy tín hay không hãy xem ý kiến của bạn Alphama và Én nâu phía trên. Mặt khác, nguồn của Viện Gia đình Illinois, Tiến sĩ Bruce J. Ellis cũng bị xóa, Tympt giải thích ra sao về điều này?Ramonovo (thảo luận) 07:50, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Nguồn dẫn phải đảm bảo quy định Wikipedia về độ uy tín, thông tin kiểm chứng được chứ không phải thông tin rác vớ vẩn nào cũng đưa vào, đặc biệt là những nội dung liên quan đến nghiên cứu và nhạy cảm.14.160.32.80 (thảo luận) 07:54, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Nguồn báo CNS thì "rác" ở đâu? Nguồn của Viện Gia đình Illinois, nghiên cứu của Tiến sĩ Bruce J. Ellis thì "rác" thế nào? Tôi xin nhắc thêm là dùng IP nặc danh để tạo đồng thuận giả là hành vi bị phạt khá nặng đấy nhéRamonovo (thảo luận) 08:00, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Xin lỗi, đến Hội đồng nghiên cứu Gia đình cũng chỉ là một nhóm thù hận, không có chức năng nghiên cứu, chuyên xuyên tạc và bóp méo nghiên cứu và lãnh đạo nhóm này chuyên phát ngôn gây sốc, bị các tổ chức nghiên cứu bác bỏ và chỉ trích. Quan trọng là thông tin phải được kiểm chứng từ các tổ chức khoa học uy tín.Tympt (thảo luận) 08:11, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Yêu cầu chấm dứt hành động dùng "rối" để bút chiến. Tôi nhắc lại đoạn 4 người hoàn toàn không đủ tiêu chuẩn để khai triển trong bài. Yêu cầu đọc lại các quy định của Wikipedia:

Bài viết cần trình bày tất cả các quan điểm quan trọng đã được xuất bản bởi một nguồn đáng tin cậy, và nên trình bày tỷ lệ với mức độ nổi trội của mỗi quan điểm. Đây là một đánh giá quan trọng: Trong những bài viết so sánh các quan điểm, các quan điểm thiểu số hơn không nên được miêu tả nhiều bằng hoặc chi tết bằng các quan điểm phổ biến hơn, và các bài này thường không nhắc đến các quan điểm quá thiểu số. Ví dụ, bài về Trái Đất không nhắc đến các ủng hộ thời hiện đại cho khái niệm Trái đất phẳng, một quan điểm của một nhóm rõ ràng là thiểu số.

Ta không nên cố trình bày tranh cãi theo kiểu một quan điểm của thiểu số xứng đáng được chú ý ngang với một quan điểm đa số. Các quan điểm của thiểu số quá nhỏ không nên được nhắc đến, ngoại trừ trong chính các bài dành riêng cho các quan điểm này. Việc nhấn mạnh quá mức một quan điểm không quan trọng lắm, hoặc nói đến một quan điểm quá thiểu số, có thể làm người đọc hiểu nhầm về cuộc tranh cãi. Wikipedia hướng đến việc thể hiện các quan điểm đối lập nhau theo tỷ lệ thuận với mức độ đại diện của chúng trong cộng đồng các chuyên gia trong ngành, hoặc trong các bên liên quan. Điều này không chỉ áp dụng cho nội dung văn bản trong bài mà còn cho các hình ảnh, liên kết ngoài, thể loại, và các nội dung khác nữa.

Các quan điểm thiểu số có thể nhận được sự chú trọng nhiều hơn tại các trang dành riêng cho chúng. Nhưng tại các trang đó, tuy có thể miêu tả quan điểm thiểu số đó một cách chi tiết, nhưng bài viết phải nhắc đến các quan điểm đa số một cách thích hợp tại những điểm có liên quan, và bài viết không được thể hiện cố gắng viết lại nội dung của quan điểm đa số chỉ hoàn toàn từ góc nhìn của quan điểm thiểu số.Tympt (thảo luận) 08:45, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Vậy nguồn của Viện Gia đình Illinois, nghiên cứu của Tiến sĩ Bruce J. Ellis thì sao lại xóa?Ramonovo (thảo luận) 08:46, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Đừng hỏi lại, đọc lý do đã nêu ban đầuTympt (thảo luận) 08:49, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Vâng, tóm lại xóa vì bạn không thích, thế thôi. Xin lỗi, tôi không thể chấp nhận kiểu hành vi này. Nếu thích phản biện thì thêm thông tin vào bài, chứ không ai có quyền xóa thông tin ở đâyRamonovo (thảo luận) 08:52, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Vậy cứ đem hàng chục đống rác vào bài để người khác phải đi "phản biện" à? Wikipedia không phải cái chợ. Quy định của Wikipedia rõ ràng ở trên nhưng không biết đọc.Tympt (thảo luận) 08:56, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Bạn cứ luôn lu loa nguồn bạn không thích là "rác", xin hỏi có ai đồng ý với bạn không hay là bạn tự nghĩ vậy?Ramonovo (thảo luận) 09:01, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

"Nghiên cứu rác" là tên các tổ chức khoa học chuyên nghiệp dùng để chỉ các nghiên cứu hay phát biểu không có uy tín và không được giới khoa học biết đến hay công nhận, hoặc đến từ các cá nhân tôn giáo chống LGBT (Ở Wikipedia có thể xếp vào POV), chứ không phải tự ai nghĩ ra.Tympt (thảo luận) 09:20, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Vấn đề là nguồn nào nói những nguồn cụ thể trong bài là rác? Cá nhân bạn không có quyền phán xét nguồn nào là rác ở đâyRamonovo (thảo luận) 09:31, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Tại sao không có quyền. Wipedia sinh ra Thảo luận để làm gì? Tympt (thảo luận) 09:40, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

3 RR ngày 22 tháng 7

Hai thành viên đã bị cấm sửa đổi 1 ngày. Tôi lùi lại phiên bản của Hoàng Đạt (tức phiên bản từ tháng 3, trước khi có nhiều sửa đổi lớn vào tháng 7) và khóa bài trong 2 tuần (vì lần trước khóa 1 tuần có vẻ chẳng nhằm nhò gì). Ai muốn bổ sung gì thì viết (từng đoạn) vào phần thảo luận này để cộng đồng xem xét, không có kiểu 3RR quá tay như vậy. conbo trả lời 14:47, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Tôi nghĩ cần khóa lâu hơn (cỡ 3 tháng là ít nhất), chứ 2 tuần thì vẫn không ăn thua, kiểu gì 2 bạn đầu nóng này cũng nhào vào lùi sửa tiếpÉn nâu (thảo luận) 14:50, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Về việc lùi lại phiên bản cũ

Đề nghị BQV lưu ý giúp, việc tạo tài khoản rối bút chiến hàng loạt để "tung hỏa mù" là cách mà MiG29VN đã dùng nhiều lần và qua mắt thành công các Bảo quản viên (MiG đã dùng tới 21 tài khoản rối [2] để bút chiến, (hiện tại đang có 3 cái mà Én nâu ở trên là 1 trong số đó). Việc Bảo quản viên lùi lại một phiên bản cũ vô tình xóa đi hàng loạt các thông tin có nguồn uy tín. Xét dưới tư cách một thành viên, bản thân Hoàng Đạt cũng không đủ lý do để xóa đi hàng loạt các đoạn như vậy, đều là những thông tin có nguồn cực kỳ uy tín đến từ các tổ chức khoa học chuyên nghiệp lớn nhất. Ở đây tôi cho rằng Hoàng Đạt vô tình khi bị rơi vào cái bẫy cài của các con rối MiG29VN, đã có nhiều lần BQV Hoàng Đạt cũng lùi lại như vậy và sau đó các thành viên phải mất công thêm lại. Việc lùi lại phiên bản cũ đang vô tình bảo vệ cho phiên bản kém chất lượng gây bất đồng (đã bị các thành viên đặt nhiều biển)của MiG29VN viết hoàn toàn trước đó. BQV hãy so sánh các phiên bản để hiểu rõ bản chất vấn đề.

Các tài khoản rối của MiG29VN, trong đó có Én nâu trên, luôn muốn bảo toàn phiên bản kém chất lượng đã bị treo đầy bảng của MiG29VN, nên mong rằng các BQV do không theo dõi sát sao bài viết từ đầu, không bị vô tình rơi vào bẫy tinh vi của kẻ đã bị Wiki Tiếng Anh đưa vào danh sách đen phá hoại toàn cầu này.

Do đó, đề nghị BQV đưa lại giúp các nội dung có nguồn uy tín mà tài khoản rối của MiG29VN đòi xóa vô căn cứ mà không cần thảo luận lý do chính đáng cho từng đoạn, từng ý. Nếu như việc này được thực hiện thành công, chắc chắn MiG sau 21 tài khoản rối bị cấm sẽ tiếp tục lấy đây làm chiêu bài "bút chiến" để ngăn cản các thành viên khác cải tổ bài viết mà không cần tốn chút sức lực thảo luận nào.

42.113.104.29 (thảo luận) 15:29, ngày 22 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Nội dung thêm mới

Đây là nội dung tôi sẽ đưa vào bài. Đây hoàn toàn là các phát biểu và đồng thuận của các tổ chức khoa học lớn nhất thế giới về các lĩnh vực nghiên cứu liên quan về các kiến thức LGBT (đây cũng chính là các kiến thức LGBT chính thống của nhân loại hiện tại), hoàn toàn không có bất kỳ một thông tin POV, quan điểm thiểu số gây tranh cãi và bị bác bỏ, nguồn kém uy tín nào. Đoạn đầu "đồng thuận" dịch nguyên bản từ bài "LGBT praenting" trên Wikipedia Tiếng Anh và các nội dung về kiến thức LGBT tồn tại thống nhất xuyên suốt các bài chủ đề này trên Wikipedia. Các thành viên khác có thể tự đọc tham khảo thêm.

Các nghiên cứu khoa học luôn cho thấy rằng cha mẹ đồng tính nam và đồng tính nữ là phù hợp và có khả năng như các bậc cha mẹ khác giới, và con cái của họ có tâm lý khỏe mạnh và cũng được điều chỉnh như những người nuôi bởi cha mẹ khác giới.[1][2][3] Kết quả nghiên cứu đhủ yếu đến từ những hiệp hội về sức khỏe tâm thần của các chuyên gia ở Mỹ, Canada, Úc và chưa xác định được nghiên cứu thực nghiệm đáng tin cậy cho kết quả khác.[3][4][5][6][7]

Copy 100% từ bài hôn nhân đồng tính, thậm chí cũng không thèm biên tập cho ngắn gọn lại. Tôi không đồng ý bổ sung vào bàiBtmu199 (thảo luận) 16:28, ngày 25 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Các nội dung khác cũng coppy nhiều đoạn vào bài. Còn về ngắn gọn, đây là trình bày về các kết quả của nhiều nghiên cứu khoa học chứ không phải là ý kiến hay quan điểm "ủng hộ" đơn thuần, lại là tổng hợp của hàng chục công trình nghiên cứu lớn của những tổ chức với hàng trăm ngàn nhà nghiên cứu, nên nó phải đủ dài chứ không thể là đoạn cụt ngủn. Bản thân kết luận ở nhiều nghị quyết của các tổ chức khoa học lớn đã là sự tóm gọn tối đa (bằng những gạch đầu dòng được thể hiện ở đoạn viết), chứ còn muốn đưa những bài cụ thể thì viết không hết. Ngoài ra, nó chưa là thấm tháp gì so với những đoạn chỉ là ý kiến POV của chỉ một vài cá nhân (tôn giáo), nhóm thù hận (Không có chức năng nghiên cứu) dù không được giới khoa học đông thuận, không ai biết đến cũng đã được khai triển như thế nào ở một số bài tương tự (như ở các bài Đồng tính luyến ái, hôn nhân đồng giới, Phản đối LGBT).TyVN (thảo luận) 16:46, ngày 25 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Từ 1 nguồn mà trích đi trích lại mấy lần, mỗi khổ dài đến cả 1-2 chục dòng, mà kêu là "ngắn gọn" thì tôi cũng bó tay. Nói chung TyVN luôn xóa xóa tiệt những quan điểm trái chiều trong khi quan điểm cũng chiều thì viết tràng giang đại hải, khiến bài viết mất cân đối nghiêm trọngBtmu199 (thảo luận) 17:33, ngày 25 tháng 7 năm 2015 (UTC)

So sánh với loạt POV ở bài Phản đối Hôn nhân đồng giới, Hôn nhân đồng giới thì chẳng thấm tháp gì. Những nội dung POV chỉ là một lời nói của một học giả tôn giáo (lời nói thì trăm người có thể nói và phát biểu) mà còn được chấp nhận, lại còn khai triển thì chả có lý gì một tổ chức lớn với hàng trăm nhà nghiên cứu lại không được khai triển. Những nội dung đều cung cấp thông tin hữu ích về kết quả nghiên cứu, chẳng có gì là dài.TyVN (thảo luận) 17:40, ngày 25 tháng 7 năm 2015 (UTC)

vâng, hợp ý bạn thì 10 dòng là ngắn gọn, còn trái ý bạn thì 1 dòng cũng là dài dòng. Từ bao giờ wiki trở thành nơi để bạn tùy ý phán quyết nguồn nào được phép dài hơn nguồn nào vậy?Btmu199 (thảo luận) 18:11, ngày 25 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Thế có đọc quy định của Wikipedia về quan điểm đa số, quan điểm thiểu số và tần suất xuất hiện không? Việc chấp nhận cho quan điểm thiểu số tồn tại ở mấy bài khác còn là một sự châm trước nên đừng dài dòng.TyVN (thảo luận) 18:15, ngày 25 tháng 7 năm 2015 (UTC)TyVN (thảo luận) 18:15, ngày 25 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Nghiên cứu về tình trạng gia đình

Sự đồng thuận của các tổ chức khoa học

Giáo sư Judith Stacey thuộc Đại học New York cho biết: "Hiếm khi nào có nhiều sự đồng thuận trong bất kỳ lĩnh vực khoa học xã hội nào như trong trường hợp của người đồng tính làm cha mẹ, đó là lý do Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ và tất cả các tổ chức nghề nghiệp lớn có chuyên môn liên quan tới phúc lợi xã hội về trẻ em đã ban hành báo cáo và nghị quyết ủng hộ quyền làm cha mẹ của người đồng tính nam và đồng tính nữ".[8] Các tổ chức này bao gồm Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, Học viện nghiên cứu tâm lý trẻ em và vị thành niên, Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ, các hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ, các hiệp hội vì hôn nhân và gGia đình trị liệu Hoa Kỳ, các hiệp hội phân tâm học Hoa Kỳ, các hiệp hội quốc gia người lao động xã hội, các liên đoàn phúc lợi trẻ em Hoa Kỳ, các Hội đồng về nhận nuôi trẻ em Bắc Mỹ và Hiệp hội tâm lý học Canada. Năm 2006, giáo sư Gregory M. Herek viết trong tạp chí Tâm lý học Mỹ (của hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ): "Nếu đồng tính nam, đồng tính nữ có ít hơn khả năng nếu so sánh với các bậc cha mẹ khác giới thì chúng tôi sẽ phát hiện và chứng minh được vấn đề khi phân biệt các loại mẫu, tuy nhiên mô hình này rõ ràng đã không quan sát được. Với sự thất bại nhất quán trong các kết quả nghiên cứu này đã bác bỏ các giả thuyết của những người tranh luận rằng con cái của cha mẹ tình dục thiểu số là tồi tệ hơn so với những con cái của cha mẹ khác giới.""[5]

Các nghiên cứu này đã so sánh trực tiếp kết quả đối với trẻ em của cha mẹ đồng tính với cha mẹ dị tính và đã thống nhất trong việc khẳng định cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam là phù hợp và có khả năng như các bậc cha mẹ khác giới, đồng thời con cái của họ phát triển tâm lý lành mạnh và tốt như con cái nuôi bởi cha mẹ dị tính[9][2][3]. Các nghiên cứu xã hội học chỉ ra rằng các yếu tố tài chính, tâm lý và thể chất hạnh phúc của cha mẹ được tăng cường bởi hôn nhân và rằng trẻ em được hưởng lợi từ việc nuôi dưỡng bởi cha mẹ khi hôn nhân được công nhận về mặt pháp lý.[3][4][10][9], mặc dù trên thực tế sự phân biệt pháp lý và bất bình đẳng vẫn là thách thức đáng kể đối với các gia đình đồng tính.[2] Các hiệp hội chủ yếu của các chuyên gia sức khỏe tâm thần ở Mỹ, Canada, và Australia cho biết chưa xác định được nghiên cứu thực nghiệm nào đáng tin cậy cho kết quả khác.[3][4][5][6][7] Kết quả các thống kê cho thấy việc chăm sóc trẻ em và những công việc khác trong các gia đình đồng tính được phân chia đồng đều hơn giữa hai người hơn[11], và rằng không có sự khác biệt về lợi ích và sở thích của trẻ em có cha mẹ đồng tính so với trẻ em có cha mẹ dị tính.[12]

Từ những năm 1970, các kết quả đã ngày càng rõ ràng rằng phương pháp và quá trình phát triển của gia đình (chẳng hạn như "chất lượng" của cha mẹ, trạng thái tâm lý xã hội hạnh phúc của cha mẹ, chất lượng và sự hài lòng với các mối quan hệ trong gia đình, mức độ hợp tác và hòa hợp giữa cha mẹ) góp phần vào việc tạo nên hạnh phúc của trẻ em chứ không phải là cấu trúc gia đình (chẳng hạn như tình trạng số lượng, giới tính hay khuynh hướng tình dục của cha mẹ).[2][10].

Các nghiên cứu và phân tích bao gồm các phân tích Bridget Fitzgerald năm 1999 về đồng tính và cha mẹ đồng tính nữ được công bố trong Tạp chí Hôn nhân và Gia đình đã chỉ ra rằng "Các nghiên cứu hiện có nói chung kết luận rằng: khuynh hướng tình dục của cha mẹ không phải là một yếu tố dự báo hiệu quả và quan trọng nhất tới sự phát triển thành công ở trẻ em" [13]. Giáo sư tâm lý học Gregory M. Herek phân tích trong tạp chí Nhà tâm lý học Mỹ (American Psychologist) năm 2006 đã cho biết: "Mặc dù có sự thay đổi đáng kể về chất lượng của các mẫu, thiết kế nghiên cứu, phương pháp đo lường và kỹ thuật phân tích dữ liệu, các phát hiện đến nay đã có sự nhất quán đáng kể. Các nghiên cứu thực nghiệm so sánh trẻ em nuôi dưỡng bởi cha mẹ có xu hướng tình dục thiểu số với những người lớn lên bởi cha mẹ dị tính đã không tìm thấy sự chênh lệch đáng tin cậy về sức khỏe tâm thần hoặc và điều chỉnh hành vi xã hội. Sự khác biệt đã không được tìm thấy trong khả năng nuôi dạy con cái giữa các bà mẹ đồng tính nữ và các bà mẹ khác giới. Các nghiên cứu về những người cha đồng tính tuy ít về số lượng nhưng không cho thấy những người đàn ông đồng tính có bất kỳ sự ít phù hợp nào về làm cha mẹ nào so với đàn ông dị tính.[5]

Trong tháng 6 năm 2010, kết quả của 25 năm nghiên cứu đang diễn ra theo chiều dọc của tiến sĩ, bác sĩ, nhà nghiên cứu Nanette Gartrell thuộc Đại học California và Phó giáo sư, tiến sĩ Henny Bos thuộc Đại học Amsterdam đã được phát hành. Gartrell và Bos đã nghiên cứu 78 trẻ em được sinh ra nhờ hỗ trợ thụ tinh nhân tạo và nuôi dưỡng bởi các bà mẹ đồng tính nữ. Các bà mẹ được phỏng vấn và đưa ra câu hỏi lâm sàng trong thời kỳ mang thai và khi con cái của họ được 2, 5, 10, và 17 tuổi. Trong bản tóm tắt của báo cáo, các tác giả cho biết: "Theo báo cáo, các cô con gái và người con trai của bà mẹ đồng tính nữ được đánh giá cao hơn đáng kể trong thành tích học tập ở trường học và trong xã hội cũng như tổng các năng lực nói chung, và thấp hơn đáng kể trong các vấn đề xã hội, sự phá bỏ các quy tắc, sự hung hăng, và biểu lộ các hành vi tiêu cực so với con cái các bà mẹ dị tính tương đương về tuổi." [14]

Tóm tắt nghị quyết chung của các hiệp hội khoa học chuyên nghiệp lớn: Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ, Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu Hoa Kỳ, Hiệp hội bác sĩ gia đình Hoa Kỳ, Hiệp hội y khoa hoa kỳ, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý các bang Kentucky và Ohio, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu bang Michigan, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội các bang Tennessee, Michigan, Kentucky và Ohio đã nêu:[15]

"Nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh rằng các chiều tâm lý và xã hội của mối quan hệ và cam kết giữa các đối tác đồng tính là giống với các đối tác dị tính. Các cặp vợ chồng đồng tính hình thành tình cảm sâu sắc và kèm theo là các mối quan hệ gắn kết, với mức độ hài lòng của mối quan hệ là tương đương hoặc cao hơn so với các cặp vợ chồng dị tính. Họ cũng trải qua các quá trình tương tự như sự thân mật, tình yêu, sự công bằng, và các vấn đề khác của mối quan hệ[16].

Các nghiên cứu về đồng tính, đồng tính nữ, lưỡng tính làm cha mẹ bao gồm hàng chục nghiên cứu thực nghiệm, các nghiên cứu trước kia sử dụng các mẫu đại diện nhỏ không xác định được, nhưng những nghiên cứu gần đây đã sử dụng các mẫu xác suất quốc gia. Phát hiện của họ được tóm tắt trong ý kiến ​​của nghiên cứu thực nghiệm được công bố trong sự tôn trọng, được các tạp chí đồng đẳng xem xét và đăng tải tại các sách, ấn phẩm khoa học. Phần lớn nghiên cứu khoa học đã trực tiếp so sánh giữa các nhóm và đã phát hiện ra rằng các cặp cha mẹ đồng tính nam và đồng tính nữ cha mẹ là phù hợp và có khả năng giống như các bậc cha mẹ khác giới, và con cái của họ thể hiện sự phát triển tâm lý lành mạnh và cũng được nuôi dạy tương tự. Các công trình nghiên cứu gần đây bao gồm "Cha mẹ đồng tính nam nữ và con cái của họ" (Patterson, AE Goldberg năm 2010), "Cuộc sống gia đình của người đồng tính nam và nữ" của CJ Patterson, "Sổ tay hôn nhân và Gia đình" (GW Peterson & KR Bush eds, 2013), "Trẻ em của cha mẹ Lesbian và Gay" của CJ Patterson (tạp chí Nhà tâm lý học, 2009), "Báo cáo kỹ thuật: Nhận con nuôi của cha mẹ đồng tính" (CJ Patterson), "Mối quan hệ gia đình của người đồng tính nữ và đồng tính nam" (J. Hôn nhân & Fam năm 2000, N. Anderssen), "Kết quả cho trẻ em của các bậc cha mẹ đồng tính" (Scand. J. Psychol), "Viễn cảnh đương đại về Lesbian, Gay", Hội nghị chuyên đề về Động lực phát triển(Nebraska, 2009), "Trẻ vị thành niên của cha mẹ đồng tính nam và nữ" (CJ Telingator & CJ Patterson), "Trẻ em vị thành niên và tâm thần học" (J. Am. Acad, 2008), "Điều chỉnh tâm lý của xã hội, trường học, mối quan hệ của thanh thiếu niên với cha mẹ đồng tính(JL Wainright), "Thiên hướng tình dục ở trẻ em trong gia đình đồng tính và đồng tính nữ"(H. Bos & TGM Sandfort, 2010), "Lesbian & Tình dục khác giới" (H. Bos), "Nuôi dạy và phát triển trẻ em trong các gia đình nhận con nuôi" (J. Child. & Fam. Stud, 2014), "Trẻ em với cha mẹ đồng tính nữ" (S. Golombok, tạp chí Tâm lý học quá trình phá triển 2003), "Chức năng tâm lý xã hội Trong số trẻ em của các cặp vợ chồng đồng tính và dị tính ở Vương quốc Anh (JL Wainright & CJ Patterson, Tạp chí tâm lý học phát triển, 2008), "Tình trạng phạm tội và sử dụng chất cấm trong thanh thiếu niên liên hệ với gia đình đồng tính" (J. Fam. Psychol, 2006)... đã đều kết luận rằng con cái của các bậc cha mẹ đồng tính nam và nữ được điều chỉnh tốt và mặt phát triển tương tự như con cái của các bậc cha mẹ khác giới[17].

Quan điểm rằng các cặp cha mẹ dị tính là tốt hơn hơn những cặp đồng tính, hoặc là con của cha mẹ đồng tính nữ hay đồng tính nam tồi tệ hơn so với trẻ em của cha mẹ khác giới, không được hỗ trợ bởi các bằng chứng khoa học thực nghiệm được tích lũy"[18].

Trong tóm tắt nghị quyết chung của các hiệp hội Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm thần học Hoa Kỳ, Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu Hoa Kỳ, Hiệp hội bác sĩ gia đình Hoa Kỳ, Hiệp hội y khoa hoa kỳ, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội Hoa Kỳ, Hiệp hội tâm lý các bang Kentucky và Ohio, Hiệp hội hôn nhân và gia đình trị liệu bang Michigan, Hiệp hội quốc gia người lao động xã hội các bang Tennessee, Michigan, Kentucky và Ohio đã nêu:[19]

Có một số ít các nguồn gợi ý rằng cha mẹ đồng tính có thể có tác động tiêu cực đối với trẻ em thì các nguồn này đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ những sai sót về phương pháp luận và không phản ánh tình trạng của kiến thức khoa học hiện tại. Cụ thể, kết luận tiêu cực của ba nhà nghiên cứu thường được trích dẫn bởi các đối thủ của hôn nhân đồng giới là Sarantakos, Regnerus và Allen - đã tạo ra một chấn động lớn khi bị bác bỏ, từ chối bởi các cộng đồng khoa học chính thống. Những sai sót trong phương pháp luận nghiên cứu của Sarantakos, Regnerus và Allen đã làm cho công việc của họ "Không liên quan đến các cuộc thảo luận thực nghiệm về nuôi dạy con và khuynh hướng tình dục. Kiểm toán viên độc lập được bổ nhiệm bởi các tạp chí đó được đăng bài Regnerus của mô tả nó như là "một nghiên cứu không khoa học" và kết luận nó không nên đã được công bố. Những sai sót trong nghiên cứu của Regnerus đã được chỉ ra trong bản kiến nghị của 200 nhà nghiên cứu. MJ Rosenfeld trả lời Allen trong Dân số học năm 2012 rằng phát hiện tồi tệ của Allen về kết quả học tập là do sai sót về phương pháp luận, bao gồm không kiểm soát đối với tác động của ly hôn và các yếu tố khác. Các tài liệu công bố gần đây của Donald Paul Sullins cho thấy tất cả các báo cáo phân tích thứ cấp của dữ liệu từ các cuộc phỏng vấn y tế quốc gia Khảo sát (NHIS) của Sullins - có sai sót về phương pháp luận tương tự...

Trong nghị quyết về "Định hướng tình dục, cha mẹ và trẻ em" thông qua năm 2004, Hiệp hội tâm lý học Hoa Kỳ đã phân tích [20]:

"Nhiều người đồng tính nữ và đồng tính nam làm cha mẹ. Có ba mối quan tâm lớn về người đồng tính làm cha mẹ thường được nêu ra. Chúng bao gồm các mối quan ngại rằng đồng tính luyến ái là bị bệnh tâm thần, rằng đồng tính nữ có ít thiên chức làm mẹ hơn so với phụ nữ dị tính, và rằng các cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam có rất ít thời gian cho các mối quan hệ của họ với con cái của họ. Nói chung, các nghiên cứu đã không cung cấp bất kỳ một cơ sở nào cho các mối quan tâm trên. Đầu tiên, đồng tính luyến ái không phải là một bệnh hay rối loạn tâm lý, không có bằng chứng đáng tin cậy rằng khuynh hướng đồng tính luyến ái làm suy yếu các chức năng tâm lý. Thứ hai, niềm tin mà người đồng tính nữ và đồng tính nam không phù hợp làm cha mẹ là không có nền tảng nghiên cứu thực nghiệm. Các thành viên trong cặp vợ chồng đồng tính được phát hiện đã phân chia các công việc gia đình và chăm sóc con cái một cách đồng đều và bình đẳng hơn, cũng như sự hài lòng về mối quan hệ với đối tác của họ. Không có cơ sở khoa học để kết luận rằng các bà mẹ đồng tính nữ hay những người cha đồng tính làm cha mẹ là không thích hợp trên cơ sở định hướng tình dục của họ. Ngược lại, các kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam có đầy đủ khả năng làm cha mẹ như các cặp dôi khác giới để cung cấp một môi trường hỗ trợ nuôi dưỡng lành mạnh cho con cái của họ.

Có ba mối quan tâm lớn về sự ảnh hưởng của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính trên trẻ em đã được thường được nêu ra. Một là, con cái của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính sẽ được trải nghiệm nhiều khó khăn trong lĩnh vực nhận dạng giới tính hơn so với trẻ em của cha mẹ khác giới. Ví dụ, trẻ em được của các cặp đồng tính sẽ hiển thị rối loạn nhận dạng giới tính và/hoặc hành vi-vai trò giới tính. Loại thứ hai của mối quan tâm liên quan đến các khía cạnh của phát triển của trẻ em với bản sắc tính dục bản thân. Ví dụ, một số nhà quan sát đã bày tỏ lo ngại rằng trẻ em dưới sự giám sát của cha mẹ đồng tính dễ bị suy sụp tinh thần, sẽ hiển thị nhiều khó khăn trong việc điều chỉnh các vấn đề hành vi, hoặc sẽ không khỏe mạnh về tâm lý như những đứa trẻ khác. Một loại thứ ba của mối quan tâm là con cái của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính sẽ gặp khó khăn trong các mối quan hệ xã hội. Ví dụ, một số nhà quan sát đã bày tỏ lo ngại rằng trẻ em sống với bà mẹ đồng tính nữ hay những người cha đồng tính sẽ bị kỳ thị, trêu chọc, hay nói cách khác là nạn nhân của các đồng nghiệp. Một nỗi sợ hãi phổ biến là trẻ em sống chung với cha mẹ đồng tính nam hoặc đồng tính nữ sẽ có nhiều khả năng bị lạm dụng tình dục bởi cha mẹ hoặc bạn bè của cha mẹ hoặc người quen. Kết quả của nghiên cứu khoa học xã hội đã không xác nhận bất kỳ mối quan tâm nào về con cái của cha mẹ đồng tính nêu trên.

Các nghiên cứu đều cho thấy rằng bản sắc tình dục (bao gồm cả bản sắc giới tính, hành vi giới tính, vai trò của xu hướng tình dục) phát triển giống nhau ở con cái của các cha mẹ đồng tính và con cái của các cha mẹ khác giới. Các bằng chứng cũng cho thấy rằng trẻ em của cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam có mối quan hệ xã hội bình thường với các bạn bè và người lớn. Những lo ngại về con cái của cha mẹ đồng tính nữ hay đồng tính bị lạm dụng tình dục bởi người lớn, bị tẩy chay bởi các đồng nghiệp, hoặc bị cô lập trong cộng đồng... đã không nhận được sự hỗ trợ nào từ khoa học. Nhìn chung, kết quả các nghiên cứu cho thấy sự phát triển, điều chỉnh, và hạnh phúc của con cái của các bậc cha mẹ đồng tính nữ và đồng tính nam không có sự khác biệt so với những trẻ em của cha mẹ khác giới."

Viện hàn lâm Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics, viết tắt: AAP) kết luận vào năm 2006, trong một bản phân tích công bố trên Tạp chí Nhi khoa:[21][5]

Có nhiều bằng chứng cho thấy không có mối quan hệ giữa thiên hướng tình dục của cha/mẹ với các yếu tố tình cảm, tâm lý và cách cư xử của một đứa trẻ... chứng tỏ không có rủi ro đối với trẻ em lớn lên trong một gia đình với cha/mẹ là đồng tính. Những người lớn tận tâm và biết cách nuôi dạy, cho dù họ là nam hay nữ, đồng tính hay dị tính, đều có thể là những bậc cha mẹ tốt.


Học viện trẻ vị thành niên và tâm thần học Hoa Kỳ (AACAP), đại diện cho hơn 8.500 bác sĩ tâm thần về trẻ em và thanh thiếu niên đã khẳng định năm 2013[22]:

"Không có bằng chứng nào cho thấy hoặc hỗ trợ quan điểm rằng cha mẹ là người đồng tính là có nguy cơ cao hay thiếu kỹ năng làm cha mẹ hơn khi so sánh với các cặp cha mẹ khác giới. Không có bằng chứng nào đáng tin cậy cho thấy rằng thiên hướng tình dục của cha mẹ có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của trẻ em. Cá nhân những người đồng tính, song tính hay chuyển giới phải đối mặt với sự giám sát chặt chẽ hơn so với những người dị tính liên quan đến các quyền lợi của họ hoặc trở thành cha mẹ. Các nghiên cứu đã chứng minh trẻ em được nuôi dưỡng bởi các cha mẹ đồng tính không có gì khác biệt so với trẻ em của cha mẹ dị tính về việc phát triển các vấn đề tình cảm hoặc hành vi.[23] Học viện trẻ em và tâm thần học Hoa Kỳ phản đối bất kỳ sự phân biệt nào dựa trên khuynh hướng tình dục hoặc giới tính đối với cá nhân liên quan đến quyền lợi của họ như giám hộ, nuôi dưỡng con cái hoặc trở thành cha mẹ".

"Đôi khi mọi người đang lo lắng rằng trẻ em được nuôi dưỡng bởi cha mẹ đồng tính sẽ cần hỗ trợ tinh thần thêm hoặc phải đối mặt với những căng thẳng xã hội. Các nghiên cứu hiện tại cho thấy trẻ em của các cha mẹ đồng tính không có gì khác so với trẻ em của cha mẹ khác giới trong việc phát triển tâm lý, tình cảm của họ hoặc các mối quan hệ của họ với những bạn bè đồng lứa và người lớn xung quanh. Nó là quan trọng cho các cha mẹ hiểu rằng, các yếu tố như chất lượng cặp cha mẹcác mối quan hệ của cha mẹ với con cái chứ không phải thiên hướng tình dục của cha mẹ có ảnh hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, trái ngược với niềm tin phổ biến thì con cái của các cha mẹ đồng tính nam, đồng tính nữ và người chuyển giới:

Không có khả năng trở thành đồng tính hơn con cái của cha mẹ khác giới.
Không có nhiều khả năng bị lạm dụng tình dục.
Không thấy sự khác biệt trong việc họ tự cho rằng mình là nam hay nữ (đồng giới).
Không thấy sự khác biệt ở các hành vi, vai trò đặc trưng của các giới tính nam và nữ."

Hiệp hội xã hội học Hoa Kỳ - tổ chức nghiên cứu chuyên nghiệp gồm hơn 13.000 thành viên, với một lịch sử lâu dài trong việc trình bày các kết quả nghiên cứu được sự đồng thuận của các nhà xã hội học để các tòa án ở Hoa Kỳ sử dụng trong việc đánh giá chứng cứ và các vấn đề pháp lý, trong Bản tóm tắt gửi Tòa án tối cao đã nói: [24]:

"Hiện nay, có hơn 200.000 trẻ em ở Mỹ sống với cha mẹ đồng tính, và gần 72% dân số Mỹ sống ở một nơi mà luật pháp đã bình đẳng hôn nhân. Kết quả các nghiên cứu khoa học xã hội trong nhiều thập kỷ, trong đó có nhiều nghiên cứu quy mô quốc gia và những bằng chứng chuyên gia giới thiệu tại các tòa án trên khắp đất nước, đã khẳng định rằng phúc lợi tích cực của trẻ em là sản phẩm của sự ổn định trong mối quan hệ giữa hai bố mẹmối quan hệ giữa cha mẹ với đứa trẻ, và các nguồn lực kinh tế xã hội của cha mẹ. Và các phúc lợi của trẻ em không phụ thuộc vào giới tính hoặc khuynh hướng tình dục của cha mẹ.

Các nhóm phản đối của hôn nhân đồng tính ở Mỹ và trên khắp thế giới thường xuyên hiểu sai hoặc xuyên tạc các nghiên cứu khoa học xã hội, nói rằng trẻ em có cha mẹ đồng tính có kết cục tồi tệ hơn so với trẻ có cha mẹ khác nhau tính. Đặc biệt, đối thủ của hôn nhân đồng tính thường xuyên trích dẫn nghiên cứu sai trái của Mark Regnerus, và gần đây đã bắt đầu hiểu sai công việc của Paul Sullins để thúc đẩy những lập luận chống lại hôn nhân đồng tính...

Chúng tôi đã rất nỗ lực trong vấn đề này bởi vì lương tâm của chúng ta không thể đứng nhìn và cho phép các đối thủ hôn nhân đồng giới tiến hành những chiến dịch nào đó nhằm bóp méo các kết quả nghiên cứu khoa học xã hội trong một nỗ lực để từ chối quyền kết hôn của người đồng tính. Các bằng chứng khoa học rõ ràng cho thấy rằng cha mẹ đồng tính là bình đẳng cũng như có khả năng nuôi dạy con cái tốt như cha mẹ khác giới, và tòa án cũng như công chúng, nên được hiểu rõ ràng về thực tế này trước khi đưa ra phán quyết hay nhận định về hôn nhân đồng tính.

Những nỗ lực của ASA để làm nổi bật sự đồng thuận của giới khoa học liên quan đến con cái của cha mẹ đồng tính ở các tòa án đã bắt đầu từ tháng 2 năm 2013. Kể từ thời điểm đó, chúng tôi đã nộp tóm tắt của mình ở nhiều Toà án khác nhau của một số tiểu bang còn cấm đoán ở Mỹ để xem xét vấn đề luật pháp liên quan về hôn nhân đồng tính. Với những bằng chứng nghiên cứu khoa học xã hội đã được ASA thực hiện và kiểm tra triệt để, sự thật chứng minh rằng trẻ em chỉ nhận được kết quả tốt khi được nuôi bởi cha mẹ đồng tính giống như khi được nuôi bởi cha mẹ khác giới. Nỗi sợ hãi vô căn cứ về con cái của cha mẹ đồng tính không vượt qua được những kết quả nghiên cứu."

Theo Hiệp hội tâm lý học Canada (CPA)[7]:

"Vào mùa thu năm 2003, CPA đã ban hành một thông cáo báo chí bác bỏ các tuyên bố về năng lực làm cha mẹ thấp của người đồng tính và những tác động của hôn nhân đồng giới trên trẻ em đã được thực hiện bởi các cá nhân và các nhóm chống đối hôn nhân đồng tính. Các bằng chứng khoa học có sẵn đã chỉ ra rằng trẻ em của cha mẹ đồng tính nam và nữ không có sự khác biệt đáng kể so với con của cha mẹ khác giới đối với sự phát triển tâm lý xã hội cũng như hình thành bản sắc giới tính. Các nghiên cứu đã cho thấy:

Người đồng tính nam và đồng tính nữ coi trọng mối quan hệ gắn kết.
Các cặp vợ chồng đồng tính tương đương các cặp khác giới về chất lượng mối quan hệ.
Cha mẹ đồng tinh nam và nữ có khả năng như cha mẹ khác giới để cung cấp môi trường nuôi dưỡng tốt, hỗ trợ lành mạnh cho con cái của họ.
Khuynh hướng tình dục, tính cách và các mối quan hệ xã hội ở trẻ em ở các vợ chồng đồng tính phát triển tương tự như trẻ em của các cha mẹ khác giới.

Niềm tin rằng người đồng tính nam và đồng tính nữ người lớn không phù hợp với các bậc cha mẹ, hoặc sự phát triển tâm lý xã hội của trẻ em của các bậc cha mẹ đồng tính bị tổn thương là không có căn cứ khoa học. Tuyên bố của chúng tôi dựa trên việc xem xét khoảng 50 công trình nghiên cứu thực nghiệm và ít nhất thêm 50 bài báo và chương sách và đã thực hiện không ngừng nghỉ trên các kết quả của bất kỳ một nghiên cứu. Những bài viết này xuất hiện trên các tạp chí như: Tạp chí Tâm lý học phát triển, Tạp chí Tâm lý trẻ em và tâm thần học, Tạp chí tâm lý học Mỹ, Tạp chí Hôn nhân và Gia đình, Tạp chí tâm thần học hành vi và các tạp chí về quan hệ gia đình, vai trò giới tính - tình dục và công tác xã hội... đã khẳng định:

Không có bằng chứng trong các tài liệu tâm lý học hỗ trợ rằng người đồng tính nam và đồng tính nữ là ít phù hợp làm cha mẹ hơn các cặp khác giới.
Không có bằng chứng trong các tài liệu tâm lý học hỗ trợ quan điểm sự phát triển tâm lý xã hội, bản sắc giới của trẻ em bị tổn hại bởi khuynh hướng tình dục của cha mẹ."

Trong một tuyên bố năm 2006, Hiệp hội Tâm lý học Canada phát hành một báo cáo cập nhật về kết luận năm 2003 và 2005 và nói rằng: "CPA công nhận và đánh giá cao việc các cá nhân và tổ chức được quyền nêu ý kiến ​​và quan điểm của mình về vấn đề này. Tuy nhiên, CPA lo ngại rằng một số người và các tổ chức là chống đối tiêu cực, đã giải thích sai lệch những phát hiện của nghiên cứu tâm lý để hỗ trợ cho địa vị - vị trí của họ, khi vị trí của họ chính xác hơn là dựa trên hệ thống của các niềm tin - tín ngưỡng và giá trị[1]." Các tổ chức khoa học chuyên nghiệp đã lưu ý rằng những nghiên cứu mà các tổ chức chống đối đã sử dụng như bằng chứng rằng các cặp vợ chồng đồng tính làm cha mẹ không thích hợp đã không tiếp cận chính xác vào các cặp cha mẹ đồng tính, và do đó không thể cho phép bất kỳ kết luận nào được rút ra về những ảnh hưởng của giới tính hoặc khuynh hướng tình dục của cha mẹ lên con cái. Thay vào đó, những nghiên cứu này chỉ lấy mẫu cha mẹ khác giới, thấy rằng nó là tốt hơn cho trẻ em được nuôi dưỡng bởi hai cha mẹ thay vì một, và/hoặc ảnh hưởng của ly hôn hoặc cái chết của cha mẹ có ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ em.[1][25]

Hiệp hội tâm lý - xã hội học Úc (The Australian Psychological Society, APS)[26] - tổ chức của các nhà tâm lý và xã hội học tại Úc với hơn 20.000 thành viên, trong kiến nghị gửi Thượng viện ban hành Luật Bình đẳng Hôn nhân sửa đổi Bill 2010 đã tuyên bố[27][28]:

"Không có cơ sở khoa học nào cho một khẳng định rằng người đồng tính nữ, đồng tính nam, song tính và những người chuyển giới là ít phù hợp để kết hôn hay để trở thành cha mẹ của những trẻ em khỏe mạnh và được nuôi dạy tốt như ở những người dị tính. APS hỗ trợ bình đẳng hôn nhân đầy đủ cho tất cả mọi người, bất kể giới tính và thiên hướng tình dục, về các khía cạnh quyền con người, sức khỏe và an sinh xã hội..."


TyVN (thảo luận) 16:01, ngày 25 tháng 7 năm 2015 (UTC)

Nghiên cứu Mark Regnerus

Nội dung của nghiên cứu này trong bài viết cũng bị lặp lại trong bài Hôn nhân đồng giới, mình đề xuất tách ra thành bài riêng New Family Structures Study (en) mà hơi lười, có bạn nào hỗ trợ không ạ.Sinaloa098 (thảo luận) 16:14, ngày 17 tháng 11 năm 2021 (UTC)

Hợp nhất với bài New Family Structures Study#Tranh luận

Tôi đề xuất viết gọn lại mục LGBT làm cha mẹ#Tranh cãi về nghiên cứu Mark Regnerus (mục này cũng đã quá dài), đưa nội dung vào bài chính New Family Structures Study#Tranh luận.Sinaloa098 (thảo luận) 19:00, ngày 26 tháng 11 năm 2021 (UTC)

Tham khảo

Lỗi thời

Bài có nhiều quan điểm đã lỗi thời. Xem phiên bản tiếng Anh của bài viết và Quan hệ cùng giới#Nuôi con ở các cặp cùng giới.1.55.157.9 (thảo luận) 16:30, ngày 17 tháng 12 năm 2023 (UTC)

Quay lại trang “LGBT làm cha mẹ”.