Nguyễn Thân 阮紳 | |
---|---|
Tên chữ | Thạch Trì |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 1854 |
Nơi sinh | Quảng Ngãi |
Mất | |
Ngày mất | 1914 |
Nơi mất | Quảng Ngãi |
Giới tính | nam |
Gia quyến | |
Thân phụ | Nguyễn Tấn |
Hậu duệ | Nguyễn Hy, Nguyễn Thị Anh, Nguyễn Thị Đình |
Nghề nghiệp | chính khách |
Quốc tịch | nhà Nguyễn |
[sửa trên Wikidata]x • t • s |
Nguyễn Thân (chữ Hán: 阮紳, 1854 - 1914)[1], biểu tự Thạch Trì (石池), là võ quan nhà Nguyễn dưới triều vua Đồng Khánh, từng phối hợp với thực dân Pháp đàn áp các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương. Ông được xem là cộng sự đắc lực của thực dân Pháp vào những năm cuối thế kỷ 19 tại Việt Nam, bị người Việt coi là Việt gian tiêu biểu trong giai đoạn lịch sử này.
Nguyễn Thân đã mang quân đánh dẹp thành công các phong trào kháng chiến chống Pháp của người Việt, giúp thực dân Pháp cai trị Việt Nam yên ổn trong nhiều năm. Nhờ những chiến công khi phục vụ cho Pháp, ông đã được trao nhiều huy chương danh giá của nước Pháp và làm Phụ chính đại thần. Ông cùng với Nguyễn Trọng Hợp là hai người nắm đại quyền trong triều đình An Nam lúc đó. Nguyễn Thân sau đó về hưu và chết bởi bệnh điên.
Quê gốc Nguyễn Thân là làng Thạch Trụ, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Cha là Nguyễn Tấn, một võ quan triều Tự Đức, nhờ dùng mưu kế, thu phục được các sắc dân ở Đá Vách (Quảng Ngãi). Tương truyền Nguyễn Tấn ăn đường Phèn, người Đá Vách tưởng ông ăn đá cuội, nên tôn ông làm "thần tướng". Theo lời của Nguyễn Thân:cha tôi làm tướng trông coi vùng núi Quảng Ngãi, Bình Định và Quảng Nam.[2]
Cha của Nguyễn Thân chết khi còn trẻ, Nguyễn Thân kế nhiệm chức của cha mình, các bộ tộc này lại nổi dậy, triều đình sai Nguyễn Thân đi đánh dẹp, biết ông là con của "thần tướng", họ lui quân. Lập được công, Nguyễn Thân trở nên nổi tiếng [3].
Đêm 22 rạng 23 tháng 4 âm lịch (tức 5-6 tháng 7 năm 1885), Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường, đem quân tấn công trại binh của Pháp ở đồn Mang Cá (Huế). Đến sáng thì đối phương phản công, quân Nguyễn thua, phải đưa vua Hàm Nghi chạy ra Quảng Trị. Ngay sau đó, nghĩa quân chiếm thành Bình Định, làm căn cứ kháng Pháp. Nguyễn Thân cũng có ý muốn chiếm tỉnh thành này, để làm nơi cát cứ, nhưng vì chậm chân hơn.
Đại thần Tôn Thất Thuyết dẫn theo vua Hàm Nghi để kêu gọi toàn dân đứng lên chống Pháp, toàn xứ Trung Kỳ rơi vào rối loạn và các cuộc nổi dậy nổ ra khắp nơi.[2] Khi vua Hàm Nghi ban bố dụ Cần Vương, Nguyễn Thân tham gia Nghĩa hội Quảng Nam[4]. Nhưng sau khi suy tính thiệt hơn, ông rời khỏi Nghĩa hội để phục vụ cho vua Đồng Khánh đang hợp tác với thực dân Pháp.
Năm 1885, vua Đồng Khánh sai Nguyễn Thân đem quân đàn áp cuộc khởi nghĩa ở Quảng Ngãi do Lê Trung Đình hay Cử Đình-Nguyễn Tự Tân hay Tú Tân chỉ huy với 2.000 lính triều đình. Nguyễn Thân chiếm lại được thành Quảng Ngãi, bắt giữ 14 người thủ lĩnh và chặt đầu tại trận.[2]
Năm 1886, Nguyễn Thân tiến về Bình Định nhằm dập tắt cuộc khởi nghĩa ở Bình Định (1885-1187) do Mai Xuân Thưởng, Tăng Bạt Hổ và Bùi Điền lãnh đạo. Nguyễn Thân đã lập tại trật tự và tổ chức chính quyền tại tất cả các huyện. Kể từ đó, Nguyễn Thân trở thành một tướng lĩnh quan trọng của triều vua Đồng Khánh đồng thời là cộng sự đắc lực, rất được Pháp tin cậy.
Năm 1887, Nguyễn Thân Vào Quảng Nam đánh dẹp phong trào kháng Pháp của Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Phan Bá Phiến. Thành công, được Pháp thưởng Bắc đẩu bội tinh ngũ hạng năm. Năm 1888: Được triều đình Huế cho lĩnh chức Binh bộ thượng thư, kiêm Tổng đốc Bình Định. Tại đây, Nguyễn Thân cho lính đàn áp các cuộc nổi dậy, được Pháp thưởng Bắc đẩu bội tinh tứ hạng.
Năm 1895: Lĩnh chức Khâm mạng tiết chế quân vụ, đem ba ngàn quân ra Hà Tĩnh lùng diệt cuộc khởi nghĩa do Phan Đình Phùng lãnh đạo.Trong một trận giao tranh ác liệt, Phan Đình Phùng bị thương nặng, rồi hy sinh vào ngày 28 tháng 12 năm 1895..Nhờ công lao này, Nguyễn Thân được cử làm phụ chính đại thần, và được phong tước Diên Lộc bá (延祿伯), sau thăng làm Diên Lộc Quận công (延祿郡公), huân chương Bắc đẩu bội binh hạng ba [5].
Phụ chính đại thần là những người chấp chính ở triều đình An Nam khi vua còn nhỏ, thời vua Thành Thái, có 3 vị phụ chính đại thần. Đệ nhất phụ chính là Tuy Lý Vương Miên Trinh, người không có thực quyền; Đệ nhị phụ chính là Nguyễn Trọng Hợp; Đệ tam phụ chính là Nguyễn Thân. Nguyễn Trọng Hợp và Nguyễn Thân là hai người nắm đại quyền trong triều đình.[6]
Đương thời nhân dân nguyền rủa Nguyễn Thân không hết lời vì những hành động tàn bạo và việc làm tay sai cho Pháp của ông ta. Chính Nguyễn Thân đã tự kể công với Pháp trong bức thư gửi cho Toàn quyền Paul Doumer:
Hưu trí, Nguyễn Thân đến ở thôn Cổ Lũy [7](nay thuộc xã Nghĩa Phú, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi), sau bị bệnh điên mà chết.
Về việc Nguyễn Thân phát điên mà chết, có người làm thơ cho đó là sự báo ứng thích đáng của Trời dành cho kẻ bán nước, làm tay sai cho giặc:
Trong sách Phan Đình Phùng của Đào Trinh Nhất, có một đoạn sử liệu như sau:
Nghĩa hội Quảng Nam do Nguyễn Duy Hiệu và Phan Bá Phiến tổ chức. Sau đó Nguyễn Thân dẫn quân triều đình nhà Nguyễn cùng quân Pháp đánh tan tác Nghĩa hội, làm cho Nguyễn Duy Hiệu bị xử tử và Phan Bá Phiến phải tự vẫn để giữ tròn khí tiết. Kể lại chuyện này, nhà chí sĩ Phan Bội Châu viết:
Ở trang nói về công cuộc kháng chiến chống Pháp của Lê Trung Đình và Trần Du, Phan Bội Châu cũng đã phê phán rằng:
Trước 1975, trong Việt Nam cách mạng cận sử của Phạm Văn Sơn cũng có đoạn:
Paul Doumer, toàn quyền thực dân Pháp ở Đông Dương ca ngợi sự phục vụ của Nguyễn Thân như sau: Ngay từ phút ban đầu, ông ấy đã có được sự tín nhiệm của tôi. Tôi hoàn toàn tin tưởng, vì An Nam giờ đã ở trong tình hình khác hẳn với thời kỳ trước đó và không có cuộc nổi loạn nào nữa. Nguyễn Thân đã cống hiến cho cả đất nước mình và nước Pháp.[12]
Một chí sĩ người Việt yêu nước đương thời từng nhận xét:
Dân gian còn lưu truyền “công trạng” của Nguyễn Thân bằng những câu ca dao: