Arleigh Burke (lớp tàu khu trục)

lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường của Hoa Kỳ

Arleigh Burke là một lớp tàu khu trục tên lửa dẫn đường thuộc biên chế Hải quân Hoa Kỳ. Nó được xây dựng dựa trên Hệ thống Tác chiến Aegis và radar mảng pha quét điện tử thụ động (PESA), đa chức năng SPY-1D. Lớp tàu lấy tên của đô đốc Arleigh Burke, một sĩ quan tàu khu trục người Mỹ trong Thế chiến II, sau này trở thành Trưởng ban Tác chiến Hải quân. Tàu dẫn đầu của lớp, USS Arleigh Burke, được nhập biên chế trong khoảng thời gian mà Arleigh Burke còn sống.

USS Arleigh Burke tại Vịnh Chesapeake năm 2013
Khái quát lớp tàu
Tên gọiLớp Arleigh Burke
Xưởng đóng tàu
  • Ingalls Shipbuilding
  • Bath Iron Works
Bên khai thác Hải quân Hoa Kỳ
Lớp trước
  • Lớp Kidd
  • Lớp Spruance
Lớp sau
  • Lớp Zumwalt
  • DDG(X)
Kinh phí1.843 tỷ USD mỗi tàu (DDG 114–116, FY2011/12)
Thời gian đóng tàu1988–hiện tại
Thời gian hoạt động1991–hiện tại
Chế tạo7
Dự tính89 cho đến tháng 4 năm 2020
Hoàn thành70
Đang hoạt động70
Nghỉ hưu0
Giữ lại0
Đặc điểm khái quát
Kiểu tàuGuided missile destroyer
Trọng tải choán nước
  • Trang bị đầy đủ:
  • Flight I: 8.184 tấn Anh (8.315 t)
  • Flight II: 8.300 tấn Anh (8.400 t)
  • Flight IIA: 9.300 tấn Anh (9.500 t)[1]
  • Flight III: 9.500 tấn Anh (9.700 t)
Chiều dài
  • Flights I và II: 505 ft (154 m)
  • Flight IIA: 509 ft (155 m)
  • Flight III: 510 ft (155 m)
Sườn ngang66 ft (20 m)
Mớn nước30,5 ft (9,3 m)
Công suất lắp đặt3 × máy phát Allison AG9140 (2.500 kW (3.400 hp) mỗi cái, 440 V)
Động cơ đẩy
  • 4 × turbine khí General Electric LM2500, mỗi cái có thể sản xuất 26.250 bhp (19.570 kW);[2]
  • được ghép với hai trục, mỗi trục dẫn động một chân vịt biến bước năm cánh có thể đảo chiều;
  • Tổng: 105.000 bhp (78.000 kW)
Tốc độKhoảng 30 kn (56 km/h; 35 mph)
Tầm xa4.400 nmi (8.100 km) ở 20 kn (37 km/h; 23 mph)
Số tàu con và máy bay mang được2 × xuồng cao tốc thân cứng - có thể bơm phồng (RHIB)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • Flight I: tổng cộng 303[3]
  • Flight IIA: 23 sĩ quan, 300 thuyền viên[3]
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Radar 3D AN/SPY-1D (Flight I, II, IIA)
  • Radar AESA 3D AN/SPY-6 (Flight III)
  • Radar dò tìm mặt đất AN/SPS-67(V)2
  • Radar dò tìm mặt đất AN/SPS-73(V)12
  • Radar điều khiển hoả lực AN/SPG-62
  • Dàn sonar AN/SQS-53C
  • Dàn sonar kéo chiến thuật AN/SQR-19
  • Hệ thống AN/SQQ-28 LAMPS III
Tác chiến điện tử và nghi trang
  • Hệ thống tác chiến điện tử AN/SLQ-32(V)2
  • Hệ thống Phòng thủ Ngư lôi AN/SLQ-25 Nixie
  • Hệ thống Phóng Mồi nhử MK 36 MOD 12
  • Hệ thống Phóng Mồi nhử MK 53 Nulka Decoy Launching System
  • Phao nhử AN/SLQ-39
Vũ khí
Máy bay mang theo
  • Flights I và II: Không
  • Flight IIA trở đi: nhiều nhất hai trực thăng MH-60R Seahawk LAMPS III
Hệ thống phóng máy bay
  • Flights I và II: Chỉ có bãi đáp trực thăng, tuy có hệ thống điển tử LAMPS III được đặt trên bãi đáp để tăng hiệu quả tác chiến chống ngầm giữa tàu và máy bay
  • Flight IIA trở đi: Bãi đáp máy bay và nhà chứa máy bay cho hai trực thăng MH-60R LAMPS III

Loại khu trục này mang thiết kế đa nhiệm, có thể hoàn thành nhiều nhiệm vụ khác nhau bao gồm tấn công đất liền bằng tên lửa hành trình Tomahawk; tác chiến phòng không (AAW) bằng hệ thống radar AEGIS và tên lửa đất-đối-không; tác chiến chống tàu ngầm (ASW) bằng dàn sonar kéo, tên lửa diệt tàu ngầm, và trực thăng chống ngầm đặc nhiệm; và tác chiến chống hạm nổi (ASuW) bằng các bệ phóng tên lửa chống hạm Harpoon. Sau khi dàn radar quét điện tử AN/SPY-1 và bệ phóng tên lửa các loại trên tàu được nâng cấp, lớp Arleigh Burke đã thể hiện tiềm năng là một hệ thống vũ khí di động có khả năng chống tên lửa đạn đạo và có khả năng diệt vệ tinh. Hệ thống nâng cấp này đang được sử dụng trên 15 tàu cho đến tháng 3 năm 2009. Một số phiên bản của tàu không còn mang dàn sonar kéo, hay ống phóng tên lửa Harpoon. Vỏ tàu và cấu trúc thượng tầng được thiết kế để có mặt cắt radar thấp nhất có thể.[6]

Tàu đầu tiên của lớp được nhập biên chế vào ngày 4 tháng 7 năm 1991. Sau khi tàu cuối cùng của lớp tàu khu trục Spruance, tàu USS Cushing, xuất biên ngày 21 tháng 9 năm 2005, các tàu thuộc lớp Arleigh Burke là loại tàu khu trục duy nhất mà Hải quân Hoa Kỳ còn sử dụng, cho đến khi lớp Zumwalt được đưa vào hoạt động từ năm 2016. Trong số tất cả những loại hạm nổi được Hải quân Hoa Kỳ sử dụng sau Thế chiến II, Arleigh Burke là tàu có trình sản xuất lâu nhất.[7] Ngoài 62 tàu thuộc lớp này (bao gồm 21 tàu thuộc phiên bản Flight I, 7 tàu thuộc bản Flight II, và 34 tàu thuộc bản Flight IIA) vẫn còn hoạt động đến năm 2016, đã có thêm 42 tàu (phiên bản Flight III) đã được lên kế hoạch sản xuất.

Với chiều dài từ 505 đến 509.5 feet (153.9 đến 155.3 mét), trọng tải choán nước từ 7,230 đến 9,700 tấn, và hệ thống vũ khí gồm 90 tên lửa các loại, lớp Arleigh Burke có thiết kế lớn hơn và mang nhiều hoả lực hơn phần lớn các tàu thuộc loại tàu tuần dương tên lửa dẫn đường.[8][9]

Đặc điểm

Phiên bản

Lớp tàu khu trục Arleigh Burke bao gồm bốn phiên bản khác nhau. Mỗi phiên bản được gọi là "Flight".

  • Các tàu mang số hiệu DDG 51 đến 71 mang thiết kế nguyên bản và được định danh là loại Flight I
  • DDG 72-78 thuộc loại Flight II
  • DDG 79-124 và DDG 127 thuộc loại Flight IIA
  • Các tàu DDG 125-126, DDG 128, và các tàu trở về sau thuộc loại Flight III[10]

Kết cấu

Các tàu thuộc lớp Arleigh Burke là loại tàu khu trục lớn nhất được đóng ở Hoa Kỳ. Chỉ các tàu lớp Spruance, Kidd (dài 563 ft hay 172 m) và lớp Zumwalt (600 ft hay 180 m) là dài hơn. Lớp tàu tuần dương tên lửa dẫn đường Ticonderoga được thiết kế bằng dạng thân tàu của lớp Spruance, tuy nhiên, nó được định danh là tàu tuần dương vì có nhiệm vụ cơ bản và hệ thống vũ khí khác so với lớp SpruanceKidd. Lớp Arleigh Burke được thiết kế với mặt phẳng ngấn nước mới và lớn hơn, đặc biệt có phần mũi tàu loe rộng, cho phép tàu có khả năng đi biển tốt hơn. Thiết kế thân tàu mới cho phép Arleigh Burke vượt biển với tốc độ cao trong thời tiết biển xấu.[6]

Các nhà thiết kế của Arleigh Burke kết hợp nhiều bài học kinh nghiệm từ thiết kế của lớp tuần dương tên lửa dẫn đường Ticonderoga. Lớp này được đánh giá là quá đắt để có thể tiếp tục sản xuất và quá khó để tiếp tục nâng cấp. Với lớp Arleigh Burke, Hải quân Hoa Kỳ quay trở về với thiết kế thân tàu hoàn toàn bằng thép. Các tàu tiền nhiệm thường kết hợp phần thân bằng thép với cấu trúc thượng tầng làm bằng nhôm để giảm khối lượng phần trên của tàu, nhưng nhôm — với đặc tính nhẹ, nhưng giòn hơn thép — dễ nứt hơn. Ngoài ra, nhôm có khả năng chịu lửa và nhiệt không bằng thép.[11] Năm 1975, môt vụ hoả hoạn trên tàu USS Belknap đã phá huỷ gần như hoàn toàn phần cấu trúc thượng tầng bằng nhôm của tàu.[12] Trong chiến tranh Falkland năm 1982, các tàu của Hải quân Hoàng gia Anh khi bị bắn trúng gặp hư hại nặng hơn do có phần cầu trúc thượng tầng bằng nhôm. Điều này cuối cùng là nhân tố quyết định cho thiết kế hoàn toàn bằng thép của Arleigh Burke. Một bài học[13] nữa được rút ra từ chiến tranh Falklands cũng được áp dụng. Arleigh Burke bảo vệ những phần trọng yếu của tàu bằng hai lớp giáp thép, đặt song song và cách nhau một khoảng rộng. Thiết kế giáp này giúp bảo vệ tàu khỏi các loại tên lửa chống hạm hiện đại. Đồng thời, tàu cũng mang các lớp giáp lót chống mảnh bom bằng kevlar.

Phòng thủ thụ động

Arleigh Burke có thiết kế tàng hình. Các mặt phẳng trên thân tàu có hình góc cạnh thay vì thẳng đứng. Cột buồm chính của tàu có ba chân nhỏ thay vì một chân lớn như các thiết kế cũ, giúp tàu khó bị phát hiện bởi radar và tên lửa chống hạm hơn. Tàu cũng mang một hệ thống tác chiến điện tử có khả năng phát hiện mối nguy hiểm và triển khai hệ thống mồi nhử tên lửa.[6]

Arleigh Burke là lớp tàu chiến đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ có mang Hệ thống Bảo vệ Tập thể, bao gồm một hế thống lọc khí có khả năng chống lại và bảo vệ thủy thủ đoàn khỏi các loại vũ khí hạt nhân, sinh học, và hoá học (NBC). Tàu mang nhiều hệ thống phòng thủ NBC, như một hệ thống rửa phần thân ngoài của tàu để gội sạch và loại bỏ các tác nhân hạt nhân, sinh học, và hoá học bám vào tàu.[14]

Hệ thống vũ khí

Các tàu thuộc lớp Arleigh Burke có thiết kế đa nhiệm, vì thế, mỗi tàu mang trên mình nhiều hệ thống vũ khí khác nhau, bao gồm "tổ hợp giữa ... một hệ thống vũ khí chống tàu ngầm (ASW) tiên tiến, tên lửa hành trình tấn công đất liền, tên lửa đối hạm, và nhiều tên lửa phòng không hiện đại."[13] Mỗi tàu có một hải pháo lưỡng dụng 127 mm (5-inch) ở mũi tàu có thể tấn công các loại tàu thủy, máy bay ở cự li gần, và các mục tiêu trên đất liền.[15]

Hệ thống Tác chiến Aegis khác với các loại radar truyền thống phải xoay 360° với mỗi lần quét. Thay vào đó, Aegis sử dụng radar mảng pha quét điện tử thụ động (PESA), cho phép theo dõi mục tiêu liên tục song song với việc quét khu vực tác chiến. Hệ thống máy tính điều khiển của Aegis cho phép tàu kết hợp hai tính năng theo dõi và ngắm bắn mục tiêu. Ở các hệ thống tác chiến cũ, hai tính năng này hoàn toàn tách biệt với nhau. Aegis không bị tác động bởi hệ thống tác chiến điện tử của đối phương. Mỗi tàu mang hàng loạt ống phóng tên lửa chống hạm Harpoon độc lập, do đó, Arleigh Burke có khả năng chống hạm nổi trong phạm vi từ 64 hải lý (119 km; 74 dặm).[6]

Sau khi tên lửa hành trình Tomahawk được nâng cấp lên phiên bản Block V, tất cả các tên lửa Block IV mà các tàu được trang bị cũng được nâng cấp lên bản Block V. Bản nâng cấp này cho phép mỗi tên lửa không chỉ có khả năng đánh các mục tiêu trên đất liền, mà còn có khả năng diệt hạm. Tên lửa Tomahawk phiên bản Block Va còn được gọi là bản "Tấn công Hàng hải" (Maritime Strike), và phiên bản Block Vb mang Hệ thống Đầu đạn Đa hiệu ứng Dùng chung (Joint Multi-Effects Warhead System).[16] Các gói nâng cấp này cho phép mỗi tàu lớp Arleigh Burke có thêm một loại tên lửa mà nó có thể dùng để diệt hạm, bên cạnh Harpoon (các tàu phiên bản Flight IIA không mang tên lửa này). Tomahawk còn có thể được trang bị với số lượng nhiều hơn Harpoon, và mang đầu đạn lớn hơn.

Các tàu mang tên lửa RIM-7 Sea Sparrow hoặc RIM-162 ESSM trong vai trò phòng thủ điểm, nhằm bảo vệ khỏi tên lửa và máy bay địch.

Loại tên lửa SM-2 và SM-6 có khả năng chống máy bay ở tầm xa; tên lửa SM-6 đặc biệt có khả năng phòng thủ tên lửa qua đường chân trời.[17] Tên lửa SM-3 và 6 có khả năng diệt tên lửa đạn đạo (BMD).[18] Hệ thống Phòng thủ Tên lửa Đạn đạo Aegis (BMD) đã trở thành một tính năng cực kì quan trọng của tàu lớp Arleigh Burke đến nỗi tất cả các tàu (bao gồm Flight I) sẽ được nâng cấp hệ thống BMD.[19] Lô 28 tàu Flight I đầu tiên đã được nâng cấp trong năm 2012-2014. Các tàu Flight III sẽ được giao cho Hải quân Hoa Kỳ từ năm 2023 với hệ thống BMD tích hợp sẵn và mang loại radar AN/SPY-6 3D mới. Trong khi đó, các tàu Flight IIA sẽ được trang bị tính năng BMD và radar AN/SPY-6 từ 2022.

Các tàu lớp Burke được trang bị hệ thống vũ khí chống tàu ngầm mới nhất của Hải quân, bao gồm sonar chủ động, dàn sonar kéo, và tên lửa diệt tàu ngầm. Hệ thống phóng tên lửa thẳng đứng (VLS) cho phép tàu phóng các tên lửa Tomahawks để tiêu diệt mục tiêu trên đất liền.[6] Các radar và cảm biến trên tàu có thể dò thấy mìn chống hạm từ khoảng cách 1,400 m.

Mỗi tàu thuộc lớp Arleigh Burke mang một hải pháo Mark 45 127 mm (5-inch). Pháo Mark 45 phiên bản Mod 2, với chiều dài nòng là 54 caliber (270 inches, 6,900 mm) được trang bị trên các tàu có số hiệu DDG-51 — DDG-80 (30 tàu). Các tàu từ DDG-81 trở đi mang pháo Mark 45 phiên bản Mod 4, với chiều dài nòng 62 caliber (310 inches, 7,900 mm). Pháo Mark 45 5-inch, được điều khiển bởi Hệ thống Kiểm soát Hỏa lực Pháo Mark 34 (GWS), có thể được dùng để chống hạm, bảo vệ tàu khỏi phi cơ đối phương ở cự li gần, và hỗ trợ hoả lực cho các đơn vị bạn trên cạn. Pháo có cự li 20 dặm (32 km) và có tốc độ bắn từ 16-20 phát mỗi phút.

Tàu Flight I, USS Fitzgerald, với TACTAS (dàn sonar kéo) ở giữa đuôi tàu. Tàu không mang nhà chứa máy bay, có ống phóng Harpoon, và thiết kế ống khói đặc biệt
USS Cole và hai tàu khác thuộc lớp Arleigh Burke cập cảng tại Trạm Hải quân Norfolk, bang Virginia

Máy bay

Lớp tàu được trang bị hệ thống trực thăng đa dụng hạng nhẹ (LAMPS). Mỗi trực thăng hỗ trợ trên tàu nâng cao khả năng chống tàu ngầm và hạm nổi của tàu. Chúng có thể được sử dụng làm bệ quan sát các tàu ngầm và chiến hạm đối phương trong khu vực. Khi cần, trực thăng cũng có thể phóng các loại thủy lôi, tên lửa để tiêu diệt chúng. Trực thăng cũng có khả năng yểm trợ, hỗ trợ hoả lực bằng súng máy và tên lửa dẫn đường chống tăng Hellfire khi vận chuyển binh lính từ tàu đến mục tiêu và ngược lại.[20] Các máy bay trực thăng cũng có thể được dùng cho nhiều mục đích khác, như tiếp tế, tìm kiếm và cứu hộ, sơ tán y tế, liên lạc, và kiếm soát hoả lực cho súng pháo của tàu.

Vào tháng 3, 2022, các tàu khu trục lớp Arleigh Burke được trang bị một máy bay không người lái (UAS) AAI Aerosonde. Máy bay này chủ yếu được sử dụng trên các tàu Flight I và Flight II do chúng không có nhà chứa máy bay nên không có trực thăng túc trực dài hạn trên tàu. Aerosonde nhỏ hơn nhiều so với trực thăng, nên có thể được cho vào kho khi không sử dụng. UAS này có khả năng trinh sát tầm xa với chi phí ít hơn nhiều so với trực thăng.[21]

Phát triển

Mạn phải tàu USS Momsen, với ống phóng ngư lôi được đặt trên boong tên lửa thay vì giữa tàu như trước đây. Kiến trúc thượng tầng được thay đổi để mang một hệ thống dò mìn từ xa.
Tàu loại Flight IIA, USS Mustin, không có TACTAS ở đuôi và không mang ống phóng Harpoon nhưng lại có nhà chứa máy bay và ống khói với thiết kế khác

Năm 1980, Hải quân Hoa Kỳ mời bảy nhà thầu quốc phòng trong nước nghiên cứu thiết kế một loại chiến hạm mới. Đến năm 1983, số công ty ứng tuyển chỉ còn ba: Bath Iron Works, Todd Shipyards, và Ingalls Shipbuilding. Ngày 3 tháng 4 năm 1985, Bath Iron Works nhận một hợp đồng trị giá 321.9 triệu USD để đóng tàu đầu tiên của lớp là USS Arleigh Burke. Công ty Gibbs & Cox nhận hợp đồng thiết kế tàu. Tổng chi phí của tàu đầu tiên năm khoảng 1.1 tỷ USD, với 778 triệu USD được chi cho hệ thống vũ khí các loại được gắn trên tàu. Con tàu này được đặt lườn bởi Bath Iron Works tại thành phố Bath, bang Maine vào ngày 6 tháng 12 năm 1988, và hạ thủy vào ngày 16 tháng 12 năm 1989 bởi vợ của Đô đốc Arleigh Burke (bà Roberta Burke). Chính Đô đốc đã có mặt tại lễ nhập biên của tàu vào ngày 4 tháng 7 năm 1991 bên bờ biển Norfolk, bang Virginia. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hải quân Hoa Kỳ mà người được đặt tên có mặt tại lễ nhập biên, và cũng là lần thứ ba mà Hải quân đặt tên con tàu cho một người còn sống.[22][23]

USS Forrest Sherman năm 2007, bắn thử hải pháo 5"/62 caliber Mark 45 Mod 4, nằm ở phía trước mô-đun tên lửa 32 ống

Loại tàu Arleigh Burke bản Flight II có một số cải tiến so với bản Flight I: tích hợp hệ thống dò hướng mục tiêu, hệ thống tác chiến điện tử SLQ-32V-3, hệ thống liên lạc quân sự TADIX-B, hệ thống chỉ huy và điều khiển JTIDS, và khả năng phóng và điều khiển tên lửa tầm xa SM-2 Block IV.[24]

Loại tàu Arleigh Burke bản Flight IIA có nhiều chức năng mới, kể từ USS Oscar Austin (DDG-79). Nằm trong số những thay đổi là hai nhà chứa máy bay ở đuôi tàu cho trực thăng chống tàu ngầm (ASW), một hải pháo 5-inch/62-caliber (127 mm) Mark 45 Mod 4 với nòng dài hơn. Loại pháo này được trang bị cho các tàu từ USS Winston S. Churchill (DDG-81) trở về sau. Các tàu Flight IIA sau này, bắt đầu từ USS Mustin (DDG-89) mang một thiết kế ống khói mới nằm sâu trong phần cấu trục thượng tầng nhằm giảm đi tín hiệu nhiệt của tàu. Dàn sonar kéo TACTAS và ống phóng tên lửa Harpoon bị loại bỏ ở các tàu Flight IIA.[25]

Hình cắt thiết kế khu trục hạm lớp Arleigh Burke, bản Flight IIA

Các tàu từ DDG-68 đến DDG-84 có hệ thống tác chiến điện tử AN/SLQ-32 với thiết kế ăng-ten giống với phiên bản V3 được trang bị cho các tàu tuần dương lớp Ticonderoga, trong khi các tàu còn lại có thiết kế giống với phiên bản V2 được trang bị cho lớp khinh hạm Oliver Hazard Perry. Phiên bản V3 có hệ thống tác chiến điện tử chủ động, trong khi V2 chỉ mang hệ thống thụ động. AN/SLQ-32 được nâng cấp qua Chương trình Cải tiến Tác chiến Điện tử Mặt nước (SEWIP). Các nâng cấp SEWIP Block 2 được triển khai vào năm 2014 với lịch sản xuất hàng loạt được đặt vào giữa năm 2015.[25]

Một số tàu Flight IIA được đóng mà không có hệ thống phòng thủ tầm gần Phalanx CIWS vì được dự kiến sẽ được trang bị tên lửa ESSM. Tuy nhiên, Hải quân sau này quyết định sửa đổi toàn bộ các tàu loại IIA với ít nhất một hệ thống Phalanx CIWS đến năm 2013. Năm 2021, dàn vũ khí laser năng lượng cao HELIOS với công suất 60 kW được thử nghiệm trên một tàu Arleigh Burke.

Các tàu USS Pinckney, USS Momsen, USS Chung-Hoon, USS Nitze, USS James E. Williams, và USS Bainbridge có cấu trúc thượng tầng khác biệt so với các tàu cùng lớp cho phép mang hệ thống dò mìn từ xa (RMS). Các ống phóng ngư lôi Mk 32 được đưa vào trong khoang tên lửa từ giữa thân tàu.

Thay thế trong tương lai

USS Michael Murphy (DDG-112) ban đầu được dự tính là tàu cuối cùng của lớp Arleigh Burke. Tuy nhiên, sau khi kế hoạch sản xuất lớp Zumwalt bị giảm, Hải quân Hoa Kỳ đặt hàng thêm nhiều tàu mới. Hợp đồng được giao cho Northrop Grumman vào tháng 12, 2009, cho tàu DDG-113 và tháng 4, 2010, cho tàu DDG-114.[26] General Dynamics nhận một hợp đồng cho DDG-115 vào tháng 12, 2010.[27] Dự kiến vào các năm tài chính 2012 và 2013, Hải quân Hoa Kỳ sẽ công bố thiết kế Flight III và yêu cầu 24 tàu được đóng từ 2016 đến 2031. Tháng 5 năm 2013, tổng cộng 76 tàu lớp Arleigh Burke đã được lên kế hoạch đóng.[28] Loại tàu Flight III được biết là ở giai đoạn thiết kế vào năm 2013. Tháng 6 năm 2013, Hải quân Hoa Kỳ ký nhiều hợp đồng cho một loạt các tàu khu trục trị giá 6.2 tỷ USD. Đến 42 tàu Flight III có thể sẽ được mua bởi Hải quân với tàu đầu tiên gia nhập biên chế vào năm 2023.

Chiến hạm nổi Tương lai

Tháng 4 năm 2014, Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu quá trình thiết kế loại tàu mới để thay thế lớp Arleigh Burke, gọi là "Chiến hạm nổi Tương lai". Lớp tàu mới được dự đoán có thể bắt đầu hoạt động vào những năm đầu 2030 và ban đầu sẽ hoạt động cùng với 22 tàu Arleigh Burke loại Flight III. Hiện tại, chưa có thiết kế vỏ tàu hoặc khung tàu nào đã được công bố, tuy nhiên được biết là lớp tàu mới sẽ tích hợp những công nghệ mới nhất bao gồm laser, hệ thống phát điện mới, tự động hoá, và vũ khí, cảm biến, hệ thống điện tử thế hệ mới. Các tàu này sẽ tận dụng các công nghệ đã được phát triển và sử dụng ở các tàu như khu trục hạm lớp Zumwalt, tàu chiến đấu ven biển (LCS), và tàu sân bay lớp Gerald R. Ford.[29]

Dự án Chiến hạm nổi Tương lai có thể sẽ đặt tầm quan trọng của hệ thống truyền động điện của lớp Zumwalt lên hàng đầu, cho phép tàu phát 58 mW điện. Với nguồn điện mạnh hơn, tàu sẽ có khả năng sử dụng vũ khí năng lượng như laser. Vũ khí laser có khả năng sẽ được trọng dụng hơn trong tương lai so với tên lửa do giá thành thấp, tránh trường hợp tên lửa được phóng có giá thành cao hơn mục tiêu đang được tập kích. Với vũ khí ít tốn kém hơn, tàu cũng mang giá thành thấp hơn. Các yêu cầu ban đầu của Chiến hạm nổi Tương lai là có khả năng sống sót và hoả lực cao hơn, đồng thời tiếp tục nhiệm vụ bảo vệ tàu sân bay. Các con tàu này phải có thiết kế mô-đun hoá, cho phép thay thế, sửa chữa, và nâng cấp vũ khí, cảm biến, hệ thống máy tính và điện tử qua thời gian khi nhiệm vụ và mục tiêu thay đổi và biến hoá. Dự án Chiến hạm nổi Tương lai đã phát triển thành chương trình DDG(X), hay "Tàu khu trục Tên lửa Dẫn đường Thế hệ mới".[30]

Lịch sử hoạt động

Tháng 10 năm 2011, bốn tàu lớp Arleigh Burke khởi hành đến Châu Âu để hỗ trợ hệ thống phòng thủ tên lửa NATO. Các tàu này, đặt cảng tại Trạm Hải quân Rota, Tây Ban Nha, được nêu tên vào tháng 12 năm 2012 là Ross, Donald Cook, Porter, và Carney. Sự có mặt của các tàu tại đây giảm thiểu thời gian tác chiến của các tàu, cho phép sáu tàu khu trục khác được chuyển từ Đại Tây Dương đến Châu Á cho Chiến thuật Đông Á. Nga đã doạ sẽ rời khỏi hiệp ước hạt nhân New START sau khi bốn tàu này được lưu động đến Châu Âu, nói rằng sự hiện diện của các tàu này đe doạ đến khả năng răn đe hạt nhân của mình. Năm 2018, Trưởng ban Tác chiến Hải quân Hoa Kỳ là Đô đốc John Richardson đã chỉ trích chính sách giữ sáu hệ thống phòng thủ tên lửa cơ động "trong một cái hộp nhỏ chỉ để bảo vệ đất liền," khi mà các hệ thống phòng thủ trên bờ có thể làm điều tương tự với giá thành ít tốn kém hơn.

Các tàu thuộc lớp

TênSố thân tàuFlightNhà thầuĐặt lườnHạ thủyNhập biênCảng nhàTình trạng
Arleigh BurkeDDG-51IBath Iron Works6 tháng 12 198816 tháng 9 19894 tháng 7 1991Rota, Tây Ban NhaHoạt động
BarryDDG-52IIngalls Shipbuilding26 tháng 2 19908 tháng 6 199112 tháng 12 1992Yokosuka, Nhật BảnHoạt động
John Paul JonesDDG-53IBath Iron Works8 tháng 8 199026 tháng 10 199118 tháng 12 1993Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
Curtis WilburDDG-54IBath Iron Works12 tháng 3 199116 tháng 5 199219 tháng 3 1994Yokosuka, Nhật BảnHoạt động
StoutDDG-55IIngalls Shipbuilding8 tháng 8 199116 tháng 10 199213 tháng 8 1994Norfolk, VirginiaHoạt động
John S. McCainDDG-56IBath Iron Works3 tháng 9 199126 tháng 9 19922 tháng 7 1994Everett, WashingtonHoạt động
MitscherDDG-57IIngalls Shipbuilding12 tháng 2 19927 tháng 5 199310 tháng 12 1994Norfolk, VirginiaHoạt động
LaboonDDG-58IBath Iron Works23 tháng 3 199220 tháng 2 199318 tháng 3 1995Norfolk, VirginiaHoạt động
RussellDDG-59IIngalls Shipbuilding24 tháng 7 199220 tháng 10 199320 tháng 5 1995San Diego, CaliforniaHoạt động
Paul HamiltonDDG-60IBath Iron Works24 tháng 8 199224 tháng 7 199327 tháng 5 1995San Diego, CaliforniaHoạt động
RamageDDG-61IIngalls Shipbuilding4 tháng 1 199311 tháng 2 199422 tháng 7 1995Norfolk, VirginiaHoạt động
FitzgeraldDDG-62IBath Iron Works9 tháng 2 199329 tháng 1 199414 tháng 10 1995San Diego, California[31]Hoạt động
StethemDDG-63IIngalls Shipbuilding11 tháng 5 199317 tháng 7 199421 tháng 10 1995San Diego, CaliforniaHoạt động
CarneyDDG-64IBath Iron Works8 tháng 8 199323 tháng 7 199413 tháng 4 1996Mayport, FloridaHoạt động
BenfoldDDG-65IIngalls Shipbuilding27 tháng 9 19939 tháng 11 199430 tháng 3 1996Yokosuka, Nhật BảnHoạt động
GonzalezDDG-66IBath Iron Works3 tháng 2 199418 tháng 2 199512 tháng 10 1996Norfolk, VirginiaHoạt động
ColeDDG-67IIngalls Shipbuilding28 tháng 2 199410 tháng 2 19958 tháng 6 1996Norfolk, VirginiaHoạt động
The SullivansDDG-68IBath Iron Works27 tháng 7 199412 tháng 8 199519 tháng 4 1997Mayport, FloridaHoạt động
MiliusDDG-69IIngalls Shipbuilding8 tháng 8 19941 tháng 8 199523 tháng 11 1996Yokosuka, Nhật Bản[32]Hoạt động
HopperDDG-70IBath Iron Works23 tháng 2 19956 tháng 1 19966 tháng 9 1997Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
RossDDG-71IIngalls Shipbuilding10 tháng 4 199522 tháng 3 199628 tháng 6 1997Rota, Tây Ban NhaHoạt động
MahanDDG-72IIBath Iron Works17 tháng 8 199529 tháng 6 199614 tháng 2 1998Norfolk, VirginiaHoạt động
DecaturDDG-73IIBath Iron Works11 tháng 1 199610 tháng 11 199629 tháng 8 1998San Diego, CaliforniaHoạt động
McFaulDDG-74IIIngalls Shipbuilding26 tháng 1 199618 tháng 1 199725 tháng 4 1998Norfolk, VirginiaHoạt động
Donald CookDDG-75IIBath Iron Works9 tháng 7 19963 tháng 5 19974 tháng 12 1998Mayport, FloridaHoạt động
HigginsDDG-76IIBath Iron Works14 tháng 11 19964 tháng 10 199724 tháng 4 1999Yokosuka, Nhật BảnHoạt động
O'KaneDDG-77IIBath Iron Works8 tháng 5 199728 tháng 3 199823 tháng 10 1999San Diego, CaliforniaHoạt động
PorterDDG-78IIIngalls Shipbuilding2 tháng 12 199612 tháng 11 199720 tháng 3 1999Rota, Tây Ban NhaHoạt động
Oscar AustinDDG-79IIA[a]Bath Iron Works9 tháng 10 19977 tháng 11 199819 tháng 8 2000Norfolk, VirginiaHoạt động
RooseveltDDG-80IIA[a]Ingalls Shipbuilding15 tháng 12 199710 tháng 1 199914 tháng 10 2000Rota, Tây Ban NhaHoạt động
Winston S. ChurchillDDG-81IIA[b]Bath Iron Works7 tháng 5 199817 tháng 4 199910 tháng 3 2001Norfolk, VirginiaHoạt động
LassenDDG-82IIA[b]Ingalls Shipbuilding24 tháng 8 199816 tháng 10 199921 tháng 4 2001Mayport, FloridaHoạt động
HowardDDG-83IIA[b]Bath Iron Works9 tháng 12 199820 tháng 11 199920 tháng 10 2001Yokosuka, Nhật BảnHoạt động
BulkeleyDDG-84IIA[b]Ingalls Shipbuilding10 tháng 5 199921 tháng 6 20008 tháng 12 2001Norfolk, VirginiaHoạt động
McCampbellDDG-85IIA[c]Bath Iron Works15 tháng 7 19992 tháng 7 200017 tháng 8 2002Everett, WashingtonHoạt động
ShoupDDG-86IIA[c]Ingalls Shipbuilding13 tháng 12 199922 tháng 11 200022 tháng 6 2002San Diego, CaliforniaHoạt động
MasonDDG-87IIA[c]Bath Iron Works19 tháng 1 200023 tháng 6 200112 tháng 4 2003Norfolk, VirginiaHoạt động
PrebleDDG-88IIA[c]Ingalls Shipbuilding22 tháng 6 20001 tháng 6 20019 tháng 11 2002Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
MustinDDG-89IIA[c]Ingalls Shipbuilding15 tháng 1 200112 tháng 12 200126 tháng 7 2003San Diego, CaliforniaHoạt động
ChafeeDDG-90IIA[c]Bath Iron Works12 tháng 4 20012 tháng 11 200218 tháng 10 2003Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
PinckneyDDG-91IIA[c]Ingalls Shipbuilding16 tháng 7 200126 tháng 6 200229 tháng 5 2004San Diego, CaliforniaHoạt động
MomsenDDG-92IIA[c]Bath Iron Works16 tháng 11 200119 tháng 7 200328 tháng 8 2004Everett, WashingtonHoạt động
Chung-HoonDDG-93IIA[c]Ingalls Shipbuilding14 tháng 1 200215 tháng 12 200218 tháng 9 2004Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
NitzeDDG-94IIA[c]Bath Iron Works20 tháng 9 20023 tháng 4 20045 tháng 3 2005Norfolk, VirginiaHoạt động
James E. WilliamsDDG-95IIA[c]Ingalls Shipbuilding15 tháng 7 200225 tháng 6 200311 tháng 12 2004Norfolk, VirginiaHoạt động
BainbridgeDDG-96IIA[c]Bath Iron Works7 tháng 5 200313 tháng 11 200412 tháng 11 2005Norfolk, VirginiaHoạt động
HalseyDDG-97IIA[c]Ingalls Shipbuilding13 tháng 1 20029 tháng 1 200430 tháng 7 2005Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
Forrest ShermanDDG-98IIA[c]Ingalls Shipbuilding7 tháng 8 20032 tháng 10 200428 tháng 1 2006Norfolk, VirginiaHoạt động
FarragutDDG-99IIA[c]Bath Iron Works9 tháng 1 200423 tháng 7 200510 tháng 6 2006Mayport, FloridaHoạt động
KiddDDG-100IIA[c]Ingalls Shipbuilding29 tháng 4 200422 tháng 1 20059 tháng 6 2007Everett, WashingtonHoạt động
GridleyDDG-101IIA[c]Bath Iron Works30 tháng 7 200428 tháng 12 200510 tháng 2 2007Everett, WashingtonHoạt động
SampsonDDG-102IIA[c]Bath Iron Works20 tháng 3 200516 tháng 9 20063 tháng 11 2007Everett, WashingtonHoạt động
TruxtunDDG-103IIA[c]Ingalls Shipbuilding11 tháng 4 20052 tháng 6 200725 tháng 4 2009Norfolk, VirginiaHoạt động
SterettDDG-104IIA[c]Bath Iron Works17 tháng 11 200519 tháng 5 20079 tháng 8 2008San Diego, CaliforniaHoạt động
DeweyDDG-105IIA[c]Ingalls Shipbuilding4 tháng 10 200626 tháng 1 20086 tháng 3 2010Yokosuka, Nhật BảnHoạt động
StockdaleDDG-106IIA[c]Bath Iron Works10 tháng 8 200610 tháng 5 200818 tháng 4 2009San Diego, CaliforniaHoạt động
GravelyDDG-107IIA[c]Ingalls Shipbuilding26 tháng 11 200730 tháng 3 200920 tháng 11 2010Norfolk, VirginiaHoạt động
Wayne E. MeyerDDG-108IIA[c]Bath Iron Works18 tháng 5 200718 tháng 10 200810 tháng 10 2009Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
Jason DunhamDDG-109IIA[c]Bath Iron Works11 tháng 4 20081 tháng 8 200913 tháng 11 2010tháng 5port, FloridaHoạt động
William P. LawrenceDDG-110IIA[c]Ingalls Shipbuilding16 tháng 9 200815 tháng 12 20094 tháng 6 2011Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
SpruanceDDG-111IIA[c]Bath Iron Works14 tháng 5 20096 tháng 6 20101 tháng 10 2011San Diego, CaliforniaHoạt động
Michael MurphyDDG-112IIA[c]Bath Iron Works18 tháng 6 20107 tháng 5 20116 tháng 10 2012Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
John FinnDDG-113IIA RestartIngalls Shipbuilding5 tháng 11 201328 tháng 3 2015[33]15 tháng 7 2017San Diego, CaliforniaHoạt động
Ralph JohnsonDDG-114IIA RestartIngalls Shipbuilding12 tháng 9 201412 tháng 12 201524 tháng 3 2018[34]Yokosuka, Nhật BảnHoạt động
Rafael PeraltaDDG-115IIA RestartBath Iron Works30 tháng 10 20141 tháng 11 2015[35]29 tháng 7 2017[36]Yokosuka, Nhật BảnHoạt động
Thomas HudnerDDG-116IIA Chèn Công nghệBath Iron Works16 tháng 11 201523 tháng 4 20171 tháng 12 2018[37]Mayport, Florida[38]Hoạt động
Paul IgnatiusDDG-117IIA Chèn Công nghệIngalls Shipbuilding20 tháng 10 201512 tháng 11 201627 tháng 7 2019Mayport, Florida[39]Hoạt động
Daniel InouyeDDG-118IIA Chèn Công nghệBath Iron Works14 tháng 5 2018[40]27 tháng 10 20198 tháng 12 2021Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
Delbert D. BlackDDG-119IIA Chèn Công nghệIngalls Shipbuilding1 tháng 6 20168 tháng 9 2017[41]26 tháng 9 2020tháng 5port, FloridaHoạt động
Carl M. Levin[42]DDG-120IIA Chèn Công nghệBath Iron Works1 tháng 2 201916 tháng 5 20212022 est.[43]Trân Châu Cảng, HawaiiHạ thủy
Frank E. Petersen Jr.[44]DDG-121IIA Chèn Công nghệIngalls Shipbuilding21 tháng 2 201713 tháng 7 201814 tháng 5 2022[45]Trân Châu Cảng, HawaiiHoạt động
John Basilone[46]DDG-122IIA Chèn Công nghệBath Iron Works10 tháng 1 20202022 est.[47]Đặt lườn
Lenah H. Sutcliffe Higbee[48]DDG-123IIA Chèn Công nghệIngalls Shipbuilding14 tháng 11 201727 tháng 1 20202024 est.[47]Hạ thủy[49]
Harvey C. Barnum Jr.[42]DDG-124IIA Chèn Công nghệBath Iron Works6 tháng 4 20212024 est.[47]Đặt lườn
Jack H. Lucas[50]DDG-125IIIIngalls Shipbuilding8 tháng 11 20194 tháng 6 2021[51]2023 est.[52]Hạ thủy
Louis H. Wilson Jr.[50]DDG-126IIIBath Iron Works2024 est.[52]Đã giao hợp đồng đóng tàu
Patrick Gallagher[53]DDG-127IIA Chèn Công nghệ[d]Bath Iron Works30 tháng 3 20222023 est.[52]Đặt lườn
Ted Stevens[54]DDG-128IIIIngalls Shipbuilding9 tháng 3 2022Đặt lườn
Jeremiah Denton[55]DDG-129IIIIngalls ShipbuildingĐược phép đóng tàu
William Charette[56]DDG-130IIIBath Iron WorksĐược phép đóng tàu
George M. Neal[57]DDG-131IIIIngalls ShipbuildingĐược phép đóng tàu
Quentin Walsh[58]DDG-132IIIBath Iron WorksĐược phép đóng tàu
Sam Nunn[59]DDG-133IIIIngalls ShipbuildingĐược phép đóng tàu
John E. Kilmer[60]DDG-134IIIBath Iron WorksĐược phép đóng tàu
Thad CochranDDG-135IIIIngalls ShipbuildingĐược phép đóng tàu
Richard G. LugarDDG-136IIIBath Iron WorksĐược phép đóng tàu
John F. Lehman[61]DDG-137IIIIngalls ShipbuildingĐược phép đóng tàu
Chưa có tênDDG-138IIIBath Iron WorksĐược phép đóng tàu
Telesforo Trinidad[62]DDG-139IIIIngalls ShipbuildingĐược phép đóng tàu

Tham khảo