Eurovision Song Contest 2024
Cuộc thi Ca khúc Truyền hình châu Âu 2024 (hay còn được gọi là Eurovision Song Contest 2024) là cuộc thi Ca khúc truyền hình châu Âu lần thứ 68. Cuộc thi dự kiến sẽ diễn ra tại nhà thi đấu Malmö Arena ở thành phố Malmö, Thụy Điển, sau chiến thắng của quốc gia này tại cuộc thi năm 2023 với ca khúc "Tattoo", biểu diễn bởi Loreen. Cuộc thi sẽ do Liên hiệp Phát sóng châu Âu (EBU) và đài truyền hình quốc gia Thụy Điển Sveriges Television (SVT) đăng cai tổ chức, và sẽ bao gồm hai vòng bán kết vào ngày 7 và 9 tháng 5, và đêm chung kết vào ngày 11 tháng 5 năm 2024.[1] Petra Mede và Malin Åkerman sẽ là các dẫn chương trình cho cuộc thi; Mede trước đó đã đảm nhiệm vai trò này tại cuộc thi năm 2013 và 2016.
Eurovision Song Contest 2024 | |
---|---|
United by Music | |
Thời gian | |
Bán kết 1 | 7 tháng 5 năm 2024 |
Bán kết 2 | 9 tháng 5 năm 2024 |
Chung kết | 11 tháng 5 năm 2024 |
Tổ chức | |
Địa điểm | Malmö Arena Malmö, Thụy Điển |
Dẫn chương trình |
|
Đạo diễn |
|
Giám sát | Martin Österdahl |
Sản xuất |
|
Đài tổ chức | Sveriges Television (SVT) |
Trang web chính thức | eurovision |
Tham gia | |
Số quốc gia | 37 |
Nước trở lại | Luxembourg |
Nước rút lui | România |
| |
Bầu chọn | |
Phương thức |
|
37 quốc gia sẽ tham dự cuộc thi năm 2024. Luxembourg dự kiến sẽ trở lại cuộc thi sau 31 năm vắng bóng kể từ lần cuối tham gia vào năm 1993, còn România sẽ không tham dự sau khi dự thi vào năm 2023.
Địa điểm
Cuộc thi Eurovision năm 2024 dự kiến sẽ được tổ chức tại Malmö, Thụy Điển, sau khi quốc gia này chiến thắng cuộc thi năm 2023 với ca khúc "Tattoo" được biểu diễn bởi Loreen. Đây là lần thứ bảy Thụy Điển tổ chức cuộc thi kể từ khi quốc gia này đã từng đăng cai vào các năm 1975, 1985, 1992, 2000, 2013 và 2016. Địa điểm được chọn làm nơi tổ chức cuộc thi là nhà thi đấu Malmö Arena với sức chứa 15,500 người, đây cũng là nơi đã từng tổ chức nhiều sự kiện như các trận đấu bóng ném, bóng sàn và những buổi hòa nhạc. Nhà thi đấu trước đó đã tổ chức cuộc thi Eurovision vào năm 2013.[1]
Giai đoạn đấu thầu
Sau khi Thụy Điển giành chiến thắng cuộc thi năm 2023, các thành phố đầu tiên đã lập tức bày tỏ mong muốn đăng cai tổ chức cuộc thi năm 2024 là Stockholm, Göteborg và Malmö, ba thành phố lớn nhất Thụy Điển và trước kia cũng đã từng tổ chức cuộc thi. Bên cạnh đó, một số thành phố khác cũng đã bày tỏ ý định dự thầu, bao gồm Eskilstuna, Jönköping, Örnsköldsvik, Partille và Sandviken.[2]
Đài SVT đã đặt ra thời hạn để các thành phố dự thầu là vào ngày 12 tháng 6 năm 2023.[3] Vào ngày 7 tháng 6, Stockholm là thành phố đầu tiên chính thức đấu thầu.[4] Ba ngày sau, Göteborg cũng đưa ra quyết định tương tự.[3] Vào ngày 13 tháng 6, Malmö và Örnsköldsvik là hai thủ phủ cuối cùng gửi hồ sơ dự thầu.[5][6] Ngay trước ngày kết thúc dự thầu, SVT công bố đã nhận được nhiều hồ sơ dự thầu từ một số thành phố tại Thụy Điển,[7][8] và sau đó đã xác nhận rằng chỉ có Stockholm, Göteborg, Malmö và Örnsköldsvik đã gửi đơn dự thầu.[9]
Trước đó, chính quyền đô thị của Sandviken đã tuyên bố sẽ không chính thức dự thầu, và Jönköping cũng có quyết định tương tự do nhà thi đấu của họ không đủ sức chứa.[10][11] Vào ngày 7 tháng 7, đơn thầu của Göteborg và Örnsköldsvik đã bị loại bỏ.[12] Vào cùng ngày, EBU và đài SVT đã chính thức thông báo Malmö sẽ đăng cai cuộc thi.[1][13]
Ký hiệu:
† Thành phố chủ nhà
Thành phố | Địa điểm | Thông tin | Nguồn |
---|---|---|---|
Eskilstuna | Stiga Sports Arena | Đã từng là nơi tổ chức vòng cứu chót trong cuộc thi Melodifestivalen năm 2020. Nhà thi đấu không đáp ứng được yêu cầu của EBU về sức chứa. | [14] |
Göteborg | Scandinavium | Đã từng là nơi tổ chức cuộc thi Ca khúc Eurovision năm 1985, hiện đang chuẩn bị phá hủy và xây dựng lại. | [3][15] [16][17] [18] |
Jönköping | Husqvarna Garden | Đã từng là nơi tổ chức vòng loại cho cuộc thi Melodifestivalen năm 2007. Nhà thi đấu không đáp ứng được yêu cầu của EBU về sức chứa. | [19][20] |
Malmö† | Malmö Arena | Đã từng là nơi tổ chức cuộc thi Ca khúc Eurovision năm 2013. | [21][22] |
Örnsköldsvik | Hägglunds Arena | Đã từng đăng cai tổ chức vòng loại cho cuộc thi Melodifestivalen năm 2007, 2010, 2014, 2018 và vòng bán kết của năm 2023. | [23] |
Partille | Partille Arena | Đã từng là nơi tổ chức cuộc thi Eurovision Choir năm 2019. Nhà thi đấu không đáp ứng được yêu cầu của EBU về sức chứa. | [24] |
Sandviken | Göransson Arena | Đã từng đăng cai tổ chức vòng loại cho cuộc thi Melodifestivalen năm 2010. Được sự hợp tác của nhiều đô thị tại Gävleborg. | [25][26] |
Stockholm | Friends Arena | Hiện đang là địa điểm tổ chức vòng chung kết cuộc thi Melodifestivalen, trừ một lần, kể từ năm 2013. Đây là địa điểm được thành ủy Stockholm nhắm tới. | [27][28] [29][30] [31][32] [33][34] [35] |
Tele2 Arena | — | ||
Nhà thi đấu tạm thời | Phương án này được đặt quanh việc xây dựng một nhà thi đấu tạm thời ở Frihamnen | .
Các quốc gia tham dự
Để đủ điều kiện tham gia cuộc thi Eurovision, các đài truyền hình quốc gia phải có tư cách là một thành viên của EBU và có khả năng phát sóng cuộc thi thông qua mạng viễn thông Eurovision trên toàn quốc. EBU đã gửi lời mời tham gia cuộc thi cho tất cả các thành viên chính.
Vào ngày 5 tháng 12 năm 2023, EBU công bố tổng cộng 37 quốc gia sẽ tham gia cuộc thi năm 2024. Luxembourg dự kiến sẽ trở lại cuộc thi sau 31 năm vắng bóng kể từ lần cuối tham gia vào năm 1993, còn România sẽ không tham dự sau khi dự thi vào năm 2023.[36]
Hai nghệ sĩ trước đó đã từng dự thi Eurovision sẽ trở lại cuộc thi vào năm 2024: Natalia Barbu (đại diện Moldova vào năm 2007) và Hera Björk (đại diện Iceland vào năm 2010).[37][38]
Quốc gia | Đài truyền hình | Nghệ sĩ | Bài hát | Ngôn ngữ | Sáng tác |
---|---|---|---|---|---|
Albania | RTSH | Besa | "Titan" | Tiếng Anh |
|
Anh Quốc | BBC | Olly Alexander | "Dizzy" | Tiếng Anh |
|
Áo | ORF | Kaleen | "We Will Rave" | Tiếng Anh |
|
Armenia | AMPTV | Ladaniva | "Jako" (Ժակո) | Tiếng Armenia |
|
Azerbaijan | İTV | Fahree ft. Ilkin Dovlatov | "Özünlə apar" | Tiếng Anh, Tiếng Azerbaijan |
|
Ba Lan | TVP | Luna | "The Tower" | Tiếng Anh |
|
Bỉ | RTBF | Mustii | "Before the Party's Over" | Tiếng Anh |
|
Bồ Đào Nha | RTP | Iolanda | "Grito" | Tiếng Bồ Đào Nha |
|
Cộng hòa Séc | ČT | Aiko | "Pedestal" | Tiếng Anh |
|
Croatia | HRT | Baby Lasagna | "Rim Tim Tagi Dim" | Tiếng Anh | Marko Purišić |
Đan Mạch | DR | Saba | "Sand" | Tiếng Anh |
|
Đức | NDR[a] | Isaak | "Always on the Run" | Tiếng Anh |
|
Estonia | ERR | 5miinust và Puuluup | "(Nendest) narkootikumidest ei tea me (küll) midagi" | Tiếng Estonia |
|
Gruzia | GPB | Nutsa Buzaladze | "Firefighter" | Tiếng Anh |
|
Hà Lan | AVROTROS | Joost Klein | "Europapa" | Tiếng Hà Lan |
|
Hy Lạp | ERT | Marina Satti | "Zari" (Ζάρι) | Tiếng Hy Lạp, Tiếng Anh |
|
Iceland | RÚV | Hera Björk | "Scared of Heights" | Tiếng Anh |
|
Ireland | RTÉ | Bambie Thug | "Doomsday Blue" | Tiếng Anh |
|
Israel | IPBC | Eden Golan | "Hurricane" | Tiếng Anh, Tiếng Do Thái |
|
Latvia | LTV | Dons | "Hollow" | Tiếng Anh |
|
Litva | LRT | Silvester Belt | "Luktelk" | Tiếng Litva |
|
Luxembourg | RTL | Tali | "Fighter" | Tiếng Pháp, Tiếng Anh |
|
Malta | PBS | Sarah Bonnici | "Loop" | Tiếng Anh |
|
Moldova | TRM | Natalia Barbu | "In the Middle" | Tiếng Anh |
|
Na Uy | NRK | Gåte | "Ulveham" | Tiếng Na Uy |
|
Pháp | France Télévisions | Slimane | "Mon amour" | Tiếng Pháp |
|
Phần Lan | Yle | Windows95man[b] | "No Rules!" | Tiếng Anh |
|
San Marino | SMRTV | Megara | "11:11" | Tiếng Tây Ban Nha |
|
Serbia | RTS | Teya Dora | "Ramonda" (Рамонда) | Tiếng Serbia |
|
Síp | CyBC | Silia Kapsis | "Liar" | Tiếng Anh |
|
Slovenia | RTVSLO | Raiven | "Veronika" | Tiếng Slovene |
|
Tây Ban Nha | RTVE | Nebulossa | "Zorra" | Tiếng Tây Ban Nha |
|
Thụy Điển | SVT | Marcus & Martinus | "Unforgettable" | Tiếng Anh |
|
Thụy Sĩ | SRG SSR | Nemo | "The Code" | Tiếng Anh |
|
Úc | SBS | Electric Fields | "One Milkali (One Blood)" | Tiếng Anh, Tiếng Yankunytjatjara |
|
Ukraina | Suspilne | Alyona Alyona và Jerry Heil | "Teresa & Maria" | Tiếng Ukraina, Tiếng Anh |
|
Ý | RAI | Angelina Mango | "La noia" | Tiếng Ý |
|
Các quốc gia khác
Các đài truyền hình hiện đang là thành viên của EBU hoạt động tại Andorra,[41] Bosna và Hercegovina,[42] Monaco[43] và Slovakia[44] đã xác nhận sẽ không tham gia cuộc thi trước khi EBU công bố danh sách các quốc gia dự thi. România không nằm trong danh sách các quốc gia dự thi được công bố vào ngày 5 tháng 12 năm 2023, tuy vậy đài TVR vẫn tiếp tục đàm phán với EBU qua thời hạn này về khả năng dự thi;[36] vào ngày 25 tháng 1 năm 2024, đài TVR cuối cùng đã quyết định sẽ không tham dự cuộc thi năm 2024.[45]
Sản xuất
Eurovision Song Contest 2024 sẽ được đài truyền hình quốc gia Thụy Điển Sveriges Television (SVT) đảm nhiệm cho vai trò tổ chức sản xuất và phát sóng cuộc thi. Đội ngũ sản xuất chính sẽ bao gồm có Ebba Adielsson làm giám đốc sản xuất, Christel Tholse Willers[46][47][48] Edward af Sillén và Daniel Réhn sẽ viết kịch bản cho chương trình.[49] Robin Hofwander, Daniel Jelinek và Fredrik Bäcklund sẽ phụ trách đạo diễn. Phần lớn đội ngũ sản xuất cuộc thi năm 2024 đã sản xuất cho ba lần cuộc thi được đăng cai tại Thụy Điển trước đó: 2000, 2013 và 2016.
làm giám đốc sản xuất điều phối mảng truyền thông, Tobias Åberg làm giám đốc phụ trách sản xuất, Johan Bernhagen làm giám đốc điều phối sản xuất, Christer Björkman làm nhà sản xuất cho cuộc thi và Per Blankens làm nhà sản xuất cho mảng truyền hình. Ngoài ra, đội ngũ bổ sung sẽ bao gồm có David Wessén làm giám đốc sản xuất, Mats Lindgren làm giám đốc pháp lý, Madeleine Sinding-Larsen làm giám đốc truyền thông, và Linnea Lopez làm trợ lý điều hành.Hội đồng thành phố Malmö công bố sẽ đóng góp hơn 30 triệu SEK (khoảng 64 tỷ VND) vào ngân sách của cuộc thi.[50][51]
Khẩu hiệu và thiết kế đồ họa
Vào ngày 14 tháng 11 năm 2023, EBU thông báo sẽ giữ lại khẩu hiệu của cuộc thi năm 2023, "United by Music" (tạm dịch sang tiếng Việt: "Đoàn kết bởi âm nhạc"), làm khẩu hiệu chung cho toàn bộ cuộc thi Eurovision từ năm 2024 trở đi.[52] Bộ thiết kế đồ họa cho cuộc thi năm 2024, mang tên "The Eurovision Lights" (tạm dịch sang tiếng Việt: "Ánh sáng Eurovision"), được ra mắt vào ngày 14 tháng 12 năm 2023.[53] Được phác thảo bởi các cơ quan Uncut và Bold Scandinavia đặt trụ sở tại Stockholm, bộ thiết kế đồ họa được dựng xung quanh các khối màu gradient hướng dọc lấy cảm hứng từ ánh cực quang và bộ điều chỉnh âm tần.[54]
Thiết kế sân khấu
Thiết kế của sân khấu cho cuộc thi năm 2024 được phác thảo bởi nhà thiết kế sản xuất người Đức Florian Wieder, người đã thiết kế sân khấu cho sáu cuộc thi Eurovision trước đó, gần đây nhất là vào năm 2021. Nhà thiết kế người Thụy Điển Fredrik Stormby sẽ hỗ trợ trong mảng thiết kế ánh sáng và màn hình. Sân khấu cho cuộc thi năm 2024 sẽ mang khuôn hình dấu chữ thập với nhiều mảng khối LED, sàn LED chuyển động, kết hợp với các công nghệ video, ánh sáng khác nhằm "mang đến cho khán giả một trải nghiệm 360 độ độc đáo".[55]
Dẫn chương trình
Dẫn chương trình và diễn viên hài người Thụy Điển Petra Mede, cùng với diễn viên người Mỹ gốc Thụy Điển Malin Åkerman, sẽ đảm nhiệm vai trò dẫn chương trình cho cuộc thi năm 2024. Mede trước đó đã đảm nhiệm vị trí dẫn chương trình tại cuộc thi năm 2013 và 2016, và đồng thời cũng dẫn dắt cho chương trình đặc biệt Eurovision Song Contest's Greatest Hits vào năm 2015 cùng với Graham Norton.[56]
Hình thức
Bốc thăm chia bảng bán kết
Một buổi lễ bốc thăm được tổ chức vào ngày 30 tháng 1 năm 2024 lúc 19:00 (CET) tại tòa thị chính Malmö , nhằm chỉ định vòng bán kết nào các quốc gia sẽ tham dự trong hai vòng bán kết.[57] 31 quốc gia dự thi hai vòng bán kết được chia vào 5 nhóm khác nhau, nhằm giảm khả năng các nước láng giềng bầu chọn cho nhau và gia tăng tính hồi hộp trong hai vòng bán kết.[58][59] Ngoài ra, buổi lễ bốc thăm cũng xác định vòng bán kết nước chủ nhà Thụy Điển và các nước thuộc nhóm "Big Five" (Pháp, Đức, Ý, Tây Ban Nha và Anh Quốc) sẽ phát sóng và tham gia bầu chọn. Buổi lễ do Pernilla Månsson Colt và Farah Abadi dẫn chương trình, và bao gồm nghi thức trao phù hiệu đăng cai từ thành phố đăng cai tiền nhiệm, Liverpool, sang Malmö.[60]
Với sự chấp thuận của ban chấp hành cuộc thi, Israel được xếp trước vào vòng bán kết 2 thể theo yêu cầu của đài truyền hình Kan, do ngày diễn tập cho vòng bán kết 1 rơi vào Yom HaShoah, ngày tưởng niệm nạn nhân nạn diệt chủng Holocaust ở Israel.[61]
Nhóm 1 | Nhóm 2 | Nhóm 3 | Nhóm 4 | Nhóm 5 |
---|---|---|---|---|
|
|
|
|
|
Các thay đổi trong hình thức cuộc thi
Một vài những thay đổi về hình thức của cuộc thi đã được đề xuất và xem xét cho cuộc thi năm 2024. Các cuộc thảo luận đầu tiên về vấn đề này đã diễn ra tại Hội thảo Eurovision được tổ chức tại phòng Meistersaal ở Berlin, Đức vào ngày 12 tháng 9 năm 2023. Bất kể thay đổi nào tới hình thức của cuộc thi do ban chấp hành quyết định.[62][63]
Bầu chọn và bố cục cuộc thi
Trong những năm gần đây, các bài hát dự thi của Na Uy liên tục bị ban giám khảo phạt, đặc biệt là năm 2019 và 2023 khi quốc gia này lần lượt xếp hạng ở vị trí thứ sáu và năm chung cuộc trong khi lại chiến thắng ở năm 2019 và đứng thứ ba trong năm 2023 trong phần bầu chọn của khán giả.[64] Với đỉnh điểm là sau kết quả của cuộc thi năm 2023, khi Thụy Điển giành chiến thắng chung cuộc bất chấp việc Phần Lan thắng phần bầu chọn của khán giả đã gây ra nhiều tranh cãi, đài NRK của Na Uy đã bắt đầu đàm phán với EBU về khả năng sửa đổi quy trình bỏ phiếu của ban giám khảo.[65] Trong một cuộc phỏng vấn, trưởng đoàn đại biểu của Na Uy, Stig Karlsen đã đề xuất giảm tỷ trọng điểm số của ban giám khảo từ 49,4% xuống còn 40% hoặc 30%.[66][67][68] Tuy vậy, không có thay đổi nào trong hệ thống bầu chọn đã được áp dụng cho năm 2024.[69]
Cổng bầu chọn dành cho khán giả từ các nước không dự thi, gọi chung là "phần còn lại của thế giới", sẽ được mở trong vòng 24 giờ trước khi một vòng thi bắt đầu. Ngoài ra, cổng bầu chọn của khán giả trong đêm chung kết sẽ được mở ngay trước khi tiết mục dự thi đầu tiên bắt đầu, và sẽ tiếp tục được mở trong vòng 25 phút sau tiết mục dự thi cuối cùng.[70]
Đài SVT ban đầu đã cân nhắc tinh chỉnh hình thức của cuộc thi nhằm cắt giảm khoảng một tiếng khỏi thời lượng của đêm chung kết, vốn đã tăng lên đáng kể kể từ khi các phân mục mới được thêm vào chương trình, như phần khai mạc diễu hành quốc kỳ vào năm 2013 và hệ thống bầu chọn tách riêng điểm của ban giám khảo với khán giả vào năm 2016.[71][72][73] Tuy nhiên, người viết kịch bản Edward af Sillén đã đính chính lại rằng đây không còn là ưu tiên, và thời lượng chương trình sẽ được rút ngắn tối đa là năm phút.[74]
Các thay đổi được đề xuất khác
Tại Liên hoan truyền hình Edinburgh vào tháng 8 năm 2023, phó tổng giám đốc EBU Jean-Philip de Tender đã bày tỏ khả năng sẽ cấm những nội dung được tạo bởi trí tuệ nhân tạo ra khỏi cuộc thi nhằm khẳng định sự sáng tạo của con người.[75][76] Cuối tháng 9 năm 2023, Carolina Norén, bình luận viên Eurovision cho đài Sveriges Radio, đã nói rằng cô đã nối lại thảo luận với giám sát điều hành Martin Österdahl để đánh giá lại đặc quyền đi thẳng vào vòng chung kết của nhóm "Big Five";[77] vào tháng 3 năm 2024, đài SVT và EBU xác nhận rằng các nước "Big Five" cùng với nước đăng cai sẽ được trình diễn đầy đủ ca khúc dự thi của mình trong hai vòng bán kết.[70]
Tổng thể cuộc thi
Bán kết 1
Vòng bán kết đầu tiên sẽ diễn ra vào ngày 7 tháng 5 năm 2024 lúc 21:00 (CEST), với 15 quốc gia tham gia dự thi. Những quốc gia đó cộng với Anh Quốc, Đức và Thụy Điển, cùng với các nước không dự thi được gộp lại thành một bộ điểm từ "phần còn lại của thế giới", sẽ bình chọn trong vòng bán kết này.[78] Anh Quốc, Đức và Thụy Điển đồng thời sẽ trình diễn đầy đủ bài hát dự thi của mình đan xen giữa các tiết mục dự thi khác.[70]
Thứ tự | Quốc gia | Nghệ sĩ | Bài hát |
---|---|---|---|
1 | Síp | Silia Kapsis | "Liar" |
2 | Serbia | Teya Dora | "Ramonda" |
3 | Litva | Silvester Belt | "Luktelk" |
4 | Ireland | Bambie Thug | "Doomsday Blue" |
5 | Ukraina | Alyona Alyona và Jerry Heil | "Teresa & Maria" |
6 | Ba Lan | Luna | "The Tower" |
7 | Croatia | Baby Lasagna | "Rim Tim Tagi Dim" |
8 | Iceland | Hera Björk | "Scared of Heights" |
9 | Slovenia | Raiven | "Veronika" |
10 | Phần Lan | Windows95man[b] | "No Rules!" |
11 | Moldova | Natalia Barbu | "In the Middle" |
12 | Azerbaijan | Fahree ft. Ilkin Dovlatov | "Özünlə apar" |
13 | Úc | Electric Fields | "One Milkali (One Blood)" |
14 | Bồ Đào Nha | Iolanda | "Grito" |
15 | Luxembourg | Tali | "Fighter" |
Bán kết 2
Vòng bán kết thứ hai sẽ diễn ra vào ngày 9 tháng 5 năm 2024 lúc 21:00 (CEST), với 16 quốc gia tham gia dự thi. Những quốc gia đó cộng với Pháp, Tây Ban Nha và Ý, cùng với các nước không dự thi được gộp lại thành một bộ điểm từ "phần còn lại của thế giới", sẽ bình chọn trong vòng bán kết này.[78] Pháp, Tây Ban Nha và Ý đồng thời sẽ trình diễn đầy đủ bài hát dự thi của mình đan xen giữa các tiết mục dự thi khác.[70]
Thứ tự | Quốc gia | Nghệ sĩ | Bài hát |
---|---|---|---|
1 | Malta | Sarah Bonnici | "Loop" |
2 | Albania | Besa | "Titan" |
3 | Hy Lạp | Marina Satti | "Zari" |
4 | Thụy Sĩ | Nemo | "The Code" |
5 | Czechia | Aiko | "Pedestal" |
6 | Áo | Kaleen | "We Will Rave" |
7 | Đan Mạch | Saba | "Sand" |
8 | Armenia | Ladaniva | "Jako" |
9 | Latvia | Dons | "Hollow" |
10 | San Marino | Megara | "11:11" |
11 | Gruzia | Nutsa Buzaladze | "Firefighter" |
12 | Bỉ | Mustii | "Before the Party's Over" |
13 | Estonia | 5miinust và Puuluup | "(Nendest) narkootikumidest ei tea me (küll) midagi" |
14 | Israel | Eden Golan | "Hurricane" |
15 | Na Uy | Gåte | "Ulveham" |
16 | Hà Lan | Joost Klein | "Europapa" |
Chung kết
Vòng chung kết sẽ diễn ra vào ngày 11 tháng 5 năm 2024 lúc 21:00 (CEST). 26 quốc gia sẽ tham gia dự thi, bao gồm nước chủ nhà Thụy Điển, các nước thuộc nhóm "Big Five", và mười nước giành được số điểm cao nhất từ mỗi vòng bán kết. Ban giám khảo và khán giả từ tất cả 37 nước tham dự cuộc thi, cũng như khán giả từ các nước không dự thi được gộp lại thành một bộ điểm từ "phần còn lại của thế giới", sẽ được quyền bầu chọn trong vòng chung kết.
Thứ tự | Quốc gia | Nghệ sĩ | Bái hát |
---|---|---|---|
1 | Thụy Điển | Marcus & Martinus | "Unforgettable" |
TBD | Anh Quốc | Olly Alexander | "Dizzy" |
Đức | Isaak | "Always on the Run" | |
Pháp | Slimane | "Mon amour" | |
Tây Ban Nha | Nebulossa | "Zorra" | |
Ý | Angelina Mango | "La noia" | |
7 tháng 5 năm 2024; 10 bài hát nhiều điểm nhất bán kết 1 | |||
9 tháng 5 năm 2024; 10 bài hát nhiều điểm nhất bán kết 2 |
Phát sóng
Các đài truyền hình quốc gia dự thi có thể phái một hoặc nhiều bình luận viên trực tiếp hay gián tiếp để phổ biến thông tin chi tiết về cuộc thi và thể lệ bầu chọn cho khán giả nước sở tại. Mặc dù mỗi nước phải phát sóng ít nhất vòng bán kết chính nước đó được xếp vào bầu chọn và đêm chung kết, hầu hết các đài đều phát sóng cả ba vòng thi với lịch trình riêng biệt. Ngoài ra, các đài từ một số nước không dự thi cũng phát sóng cuộc thi. Kênh YouTube chính thức của Eurovision cung cấp các luồng phát sóng trực tiếp quốc tế không bao gồm phần bình luận của cả ba vòng thi.
Quốc gia | Đài truyền hình | Kênh | Chương trình | Bình luận viên | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
Úc | SBS | SBS | Toàn bộ | TBA | [82] |
Áo | ORF | ORF 1 | Chung kết | TBA | [83] |
FM4 | Toàn bộ | Jan Böhmermann và Olli Schulz | [84] | ||
Azerbaijan | İTV | Toàn bộ | Nurlana Jafarova | [85] | |
Síp | CyBC | TBA | Toàn bộ | Melina Karageorgiou và Hovig | [86] |
Đan Mạch | DR | DR1 | TBA | Ole Tøpholm | [87][88][89] |
Pháp | France Télévisions | Culturebox | Bán kết | Nicky Doll | [90] |
France 2 | Chung kết | Stéphane Bern và Laurence Boccolini | |||
Đức | ARD/NDR | One | Bán kết | Thorsten Schorn | [91] |
Das Erste | Chung kết | ||||
Hy Lạp | ERT | TBA | Thanasis Alevras và Jérôme Kaluta | [92] | |
Ý | RAI | Rai 2 | Bán kết | Gabriele Corsi và Mara Maionchi | [93] |
Rai 1 | Chung kết | ||||
Rai Radio 2 | Toàn bộ | Diletta Parlangeli và Matteo Osso | |||
Iceland | RÚV | RÚV | Toàn bộ | TBA | [94][95][96] |
RÚV 2 | Bình luận bằng ngôn ngữ ký hiệu | ||||
Israel | IPBC | TBA | Asaf Liberman, Akiva Novick và Yoav Tzafir | [97][98] | |
Luxembourg | RTL | RTL | Toàn bộ | TBA | [99] |
Hà Lan | NPO/AVROTROS | NPO 1 | Toàn bộ | Cornald Maas và Jacqueline Govaert | [100] |
Ba Lan | TVP | TBA | Artur Orzech | [101] | |
Serbia | RTS | RTS 1 | Bán kết 1 | TBA | [102] |
TBA | Chung kết | ||||
Slovenia | RTVSLO | TBA | Andrej Hofer | [103] | |
Tây Ban Nha | RTVE | TBA | Bán kết | Tiếng Tây Ban Nha: Julia Varela và Tony Aguilar | [104][105] |
La 1 | Chung kết | Tiếng Tây Ban Nha: Julia Varela và Tony Aguilar Tiếng Catalan: Sònia Urbano và Xavi Martínez | |||
Ràdio 4 Catalunya | Tiếng Catalan: Sònia Urbano và Xavi Martínez | ||||
Thụy Sỹ | SRG SSR | RSI La 2 | Bán kết | TBA | [106] |
RSI La 1 | Chung kết | [107] | |||
RTS 1 | |||||
SRF zwei | Bán kết | Sven Epiney | [108][109][110] | ||
SRF 1 | Chung kết | ||||
Ukraina | Suspilne | Suspilne Kultura | TBA | [111] | |
Radio Promin | |||||
Anh Quốc | BBC | BBC One | Toàn bộ | TBA | [112][113] |
Quốc gia | Đài truyền hình | Kênh | Chương trình | Bình luận viên | Nguồn |
---|---|---|---|---|---|
Montenegro | RTCG | TBA | [114] | ||
Bắc Macedonia | MRT | [115][116] |
Sự cố
Sự tham dự của Israel
Kể từ khi chiến tranh Israel–Hamas bùng phát vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, đã có nhiều lời kêu gọi loại bỏ Israel khỏi danh sách các quốc gia tham dự cuộc thi do khủng hoảng nhân đạo được gây ra bởi các hoạt động quân sự của Israel tại dải Gaza.[117] Các hành động chống lại sự tham dự của Israel đã bao gồm các cuộc biểu tình và đơn kiến nghị nhắm vào các đài truyền hình của một số nước dự thi, nổi bật nhất là Iceland,[118] Na Uy[119] và Phần Lan.[120] Tính đến tháng 3 năm 2024, không có đài truyền hình nào đã lên tiếng phản đối sự tham dự của Israel tại cuộc thi. Vào tháng 11 năm 2023, đội ngũ sản xuất của đài SVT đã tiết lộ rằng họ sẽ tăng cường các biện pháp an ninh tại nhà thi đấu Malmö Arena và giữ liên lạc thường xuyên với đội ngũ cảnh sát của thành phố Malmö xuyên suốt thời gian tổ chức cuộc thi, trước nguy cơ xảy ra cuộc tấn công khủng bố nhắm vào cuộc thi do ảnh hưởng từ chiến tranh Israel–Hamas.[121]
Vào cuối tháng 2 năm 2024, báo chí Israel đưa tin rằng hai bài hát đã được lọc ra để chọn làm đại diện Israel tại cuộc thi năm 2024, mang tên "October Rain" và "Dance Forever", và hai bài hát đó đã được gửi sang EBU để được đánh giá nhưng cuối cùng bị từ chối do có chứa nội dung chính trị.[122][123][124] Đài truyền hình của Israel, Kan, đã xác nhận thông tin trên vào ngày 3 tháng 3, và đồng thời cũng tuyên bố rằng sẽ yêu cầu các nhà sáng tác của hai bài hát trên viết lại lời bài hát để tuân thủ luật thi. Bài hát được lựa chọn dự thi cho Israel, "Hurricane", được EBU chấp thuận vào ngày 7 tháng 3 và được ra mắt ba ngày sau đó.[125][126][127]