Bradford City A.F.C.

Bradford City Association Football Club là câu lạc bộ bóng đá nằm ở Bradford, West Yorkshire. Thành lập vào năm 1903, hiện tại đội bóng đang thi đấu ở League One. Màu sắc chủ đạo của họ là rượu nho và hổ phách. Sân nhà của câu lạc bộ là Valley Prade với sức chứa 25,136 chỗ ngồi.

Bradford City
Tên đầy đủBradford City Association Football Club
Biệt danhThe Bantams
The Paraders
The Citizens
Thành lập1903; 121 năm trước (1903)
SânValley Parade
Bradford, Anh
Sức chứa25,136
Chủ tịch điều hànhMark Lawn
Julian Rhodes
Người quản lýPhil Parkinson
Giải đấuLeague One
2013–14League One (hạng nhì Anh), thứ 11
Trang webTrang web của câu lạc bộ
Mùa giải hiện nay

Màu sắc và huy hiệu

Bradford City là đội bóng chuyên nghiệp duy nhất ở Anh mặc áo màu rượu nho và hổ phách. Màu sắc của CLB được thừa hưởng từ đội Manningham, khi CLB chuyển sang bóng đá và dựa trên sự thành lập thành phố Bradford City vào năm 1903. Tuy nhiên, trong khi Manningham đóng vành thì đội bóng mới lại lấy sọc màu rượu nho và hổ phách.[1] Manningham RFC sử dụng màu này năm 1884 trước khi chuyển đến Valley Parade năm 1886. Vì trước đây đội bóng sử dụng áo đen và quần trắng, cho nên trận đấu đầu tiên của CLB trong màu áo rượu nho và hổ phách là cuộc tiếp đón Hull ngày 20 tháng 9 năm 1884 ở Carlisle Road.

Lý do Manningham chọn rượu nho và hổ phách không được dẫn chứng nhưng nó cùng màu với The Prince of Wales's Own West Yorkshire Regiment, tọa lạc ở trại lính Belle Vue gần đường Manningham. Cả Manningham, từ 1886, và Bradford City, từ 1903 đến 1908, đã dùng trại lính đó làm phòng thay đồ và phòng sinh hoạt của CLB.

Bradford City đã mặc áo màu rượu nho và hổ phách với màu đen hoặc trắng kể từ khi đội bóng thành lập. Kể từ vụ hỏa hoạn năm 1985, CLB đã sử dụng màu đen trên áo như là lời tưởng niệm đến 56 cổ động viên đã thiệt mạng.[2] Áo sân khách theo truyền thống là màu trắng và một ít xanh dương, nhưng những năm gần đây có rất nhiều thiết kế và màu sắc cụ thể khác. Trang phục sân khách mùa giải 2008–09 season là màu trắng hoàn toàn.[2] Bước vào mùa giải 2009–10, trang phục sân khách là màu đen hoàn toàn cùng với một lớp mỏng màu rượu nho và hổ phách ở dưới phần giữa bên trái.

Khăn choàng của City cũng được bán với số lượng lớn cho fan của Harry Potter, bởi vì chúng có màu sắc giống như của gia đình Harry ở Hogwarts School.[3]

Một số đội bóng khác trên thế giới cũng mang áo màu rượu nho và hổ phách, bao gồm đội bóng Scotland Motherwell, mà lúc đầu mặc áo xanh dương và trắng cho đến khi mặc áo màu rượu nho và hổ phách lần đầu tiên vào ngày 23 tháng 8 năm 1913, khi tiếp đón Celtic. Thật sai lầm khi tin rằng Motherwell chọn hai màu đó bởi vì chúng là màu sắc trong cuộc đua của lãnh chúa Hamilton; có thể là do Motherwell bị ảnh hưởng bởi chức vô địch FA Cup của Bradford City năm 1911.[4]

Huy hiệu của CLB là sự kết hợp giữa một chuỗi các huy hiệu qua nhiều năm. Năm 1974, City chọn một biểu tượng với phong cách đồng thời với nguồn gốc của CLB với huy hiệu có chữ B-C. Tại thời điểm đó, huy hiệu mới vẫn giữ nguyên biệt danh cũ của The Paraders. Trước tháng 12 năm 1981, CLB giới thiệu lại biệt danh chính thức The Bantams với một con gà lùn trên huy hiệu mới. Huy hiệu cũng giữ nguyên màu sắc của CLB và từ The Bantams.

Biệt danh

Bradford City có rất nhiều biệt danh xuyên suốt lịch sử. Vào những năm đầu, họ được biết đến với biệt danh The Robins hoặc The Wasps, lấy từ biệt danh của Manningham FC, là kết quả của trang phục màu rượu nho và hổ phách của Manningham.[5] Một số biệt danh khác bao gồm The Citizens hay Paraders, nhưng CLB vẫn được biết đến nhiều hơn với tên gọi The Bantams.

Sân vận động

Valley Parade là một nơi khai thác hầm đá trên sườn đồi phía dưới Manningham, Bradford, sở hữu bởi Công ty Đường sắt Midland năm 1886, khi Manningham RFC mua 1/3 số đất và cho thuê phần còn lại, bởi vì họ bị bắt buộc phải sân nhà mới. Họ tốn 1,400 bảng Anh dựng lên một sân vận động với sức chứa 20,000 người, cơ sở vật chất cho đội bóng và nâng cấp sân lên.[6] Khi Bradford City được thành lập năm 1903, họ tiếp quản sân Valley Parade, nơi mà thời đó cũng là trụ sở của The 2nd West Riding Brigade Royal Field Artillery (Territorial Force), thi đấu trận sân nhà đầu tiên vào ngày 5 tháng 9 năm 1903 với Gainsborough Trinity, với sự cổ vũ của 11,000 khán giả.[7][8] 5 năm sau, CLB giành quyền thăng hạng lên chơi ở Division One, và vì thế ủy quyền cho kiến trúc sư bóng đá Archibald Leitch xây dựng lại sân. Sức chứa được tăng lên 40,000 trước tháng 12 năm 1908 với khán đài 5,300 chỗ ngồi, một mô đất con nhái phía trước, một sân Spion Kop, và khán đài chứa 8,000 chỗ ngồi Midland Road.[9] Trận đấu đầu tiên với Bristol City vào ngày Giáng sinh thu hút sự tham gia của 36,000 CĐV.[10] Ngày 11 tháng 3 năm 1911, Valley Parade đạt số người đến xem cao nhất 39,146, nhờ trận đấu FA Cup giữa Bradford City và Burnley.[11]

Cho đến năm 1952, trước khi Bradford City mua 2/3 số đất còn lại để sở hữu hoàn toàn,[12] phần đất còn lại đó hầu như vẫn không thay đổi.[10][13] Tuy nhiên, trong thập kỉ sau đó, khán đài Midland Road phải bị dỡ bỏ 2 lần. CLB đóng cửa nó lần đầu vào năm 1952, do hậu quả của thảm họa Burnden Park 6 năm trước đó. Bộ khung của nó được bán cho Berwick Rangers và một khán đài thay thế khác được xây vào năm 1954.[12] 6 năm sau, khán đài mới tự phá hủy, và Valley Parade chỉ còn 3 mặt cho đến năm 1966, khi sân được di chuyển và một khán đài mới được xây dựng.[14]

The Bradford End of Valley Parade, which was the first to be redeveloped after the ground reopened in 1986

Vào ngày 11 tháng 5 năm 1985, Valley Parade là cảnh tượng của vụ cháy lịch sử, khiến cho 56 cổ động viên tử vong và ít nhất 265 bị thương. Đó là trận đấu cuối cùng của mùa giải 1984–85, trước khi City nâng cao chiếc cúp vô địch của Division Three. Vụ hỏa hoạn phá hủy khán đài chính chỉ trong 9 phút.[6][15] CLB phải chơi trên sân nhà Odsal Stadium, một sân vận động bóng bầu dục ở Bradford, Elland Road, Leeds, và Leeds Road, sân nhà cũ của Huddersfield Town, cho đến tháng 12 năm 1986, khi Valley Parade đã được sửa chữa.[16] CLB phải chi 2.6  triệu bảng Anh xây dựng một khán đài mới và nâng cấp The Kop, cùng với việc hoạt động lại sân vào ngày 14 tháng 12 năm 1986 cho một trận giao hữu với đội quốc tế Anh XI.[17]

Năm 1991, phần cuối sân vận động của Bradford là nơi tiếp theo được xây dựng lại để trở thành khán đài 2 dãy cùng với bảng tỉ số. Năm 1996, cùng với sự thăng hạng của City lên Division One, chủ tịch CLB Geoffrey Richmond thông báo xây dựng thêm một khán đài 4,500 chỗ ngồi ở phía Midland Road. Trước sự thăng hạng lên Premiership năm 1999, Richmond chi thêm 6.5 triệu bảng Anh để chuyển The Kop thành khán đài 2 dãy với 7,500 chỗ ngồi.[18] Một khán đài góc giữa The Kop và khán đài chính hoạt động vào tháng 12 năm 2000, nâng sức chứa lên 20,000 lần đầu tiên kể từ năm 1970.[19] Mùa hè sau đó, khán đài chính cũng được chuyển thành khán đài 2 dãy, nâng sức chứa lên 25,136 chỗ. Nhiều dự án khác đã được lên kế hoạch cho đến khi CLB lâm vào khủng hoảng kinh tế vào tháng 5 năm 2002 vì thế không dự án nào được thực hiện.[18] Năm sau đó, Valley Parade được bán cho quỹ phụ cấp Gibb với giá 5 triệu bảng Anh, cùng với văn phòng của CLB, cửa hàng và bãi đỗ xe được bán cho Development Securities ở London với giá 2.5 triệu bảng Anh,[20] nhưng những thứ đó (văn phòng, cửa hàng, bãi đỗ xe) được lấy lại bởi các chủ tịch vào mùa hè năm 2011.[cần dẫn nguồn] Tiền thuê và bảo trì hằng năm cho quỹ phụ cấp Gibb 1.2 triệu bảng, và cho đến tháng 2 năm 2009, CLB xem xét hoàn trả cho Odsal. CLB và Bradford Bulls chia sẻ khu nhà đa năng mới có giá 50 triệu bảng Anh, nơi có thêm cơ sở vật chất cho môn cricket, đua xe đạp và điền kinh.[21] Valley Parade có rất nhiều tên khác do nhà tài trợ và bây giờ đang được gọi là sân vận động Coral Windows.[22]

Kình địch

Bradford City tham gia vào derby Bradford với kình địch cùng thành phố Park Avenue. West Yorkshire derby được tổ chức giữa City và kình địch lân cận khác như Leeds UnitedHuddersfield Town.[23][24] Một cuộc "kình địch thân thiện" cũng diễn ra giữa CLB với Halifax Town/FC Halifax Town.[25]

Bóng đá châu Âu

Bradford City tham dự Intertoto Cup năm 2000 cùng với Aston Villa là những đội bóng đại diện cho nước Anh trong giải đấu.[26]

Mùa giảiGiải đấuVòngĐối thủLượt điLượt vềTổng tỷ số
2000UEFA Intertoto CupVòng hai FK Atlantas3–14–17–2
Vòng ba RKC Waalwijk2–01–03–0
Bán kết FC Zenit Saint Petersburg0–10–30–4

Đội hình hiện tại

Tính đến 20 tháng 11 năm 2015[27][28]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

SốVT Quốc giaCầu thủ
1TM Ben Williams
2HV Stephen Darby (Đội trưởng)
3HV James Meredith
4TV Lee Evans (cho mượn từ Wolverhampton Wanderers)
5HV Nathan Clarke
7TV Mark Marshall
8TV Gary Liddle
9 James Hanson
10 Billy Clarke
11TV Billy Knott
14TV Josh Morris
15HV Greg Leigh
16HV Reece Burke (cho mượn từ West Ham United)
17TV Kyel Reid (cho mượn từ Preston North End)
SốVT Quốc giaCầu thủ
18HV Christopher Routis
20TV Filipe Morais
23HV Rory McArdle
24 Steve Davies
26TV Paul Anderson
27TV Joe Brennan
28TV Dylan Mottley-Henry
29HV Tony McMahon
30TM Joe Cracknell
31HV James King
33 Luke James (cho mượn từ Peterborough United)
44 Devante Cole

Cho mượn

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

SốVT Quốc giaCầu thủ
6HV Alan Sheehan (cho mượn tới Notts County)
SốVT Quốc giaCầu thủ
25TV Sam Wright (on loan to Scarborough Athletic)

Cầu thủ của Năm

NămTên
1999 Stuart McCall[29]
2002 Andy Myers[30]
2003 Andy Gray[31]
2004 Paul Heckingbottom[32]
2005 Mark Bower[33]
2006 David Wetherall[34]
2007 Nathan Doyle[35]
2008 Joe Colbeck[36]
2009 Luke O'Brien[37]
2010 James Hanson[38]
2011 Không trao tặng[39]
2012 Luke Oliver[40]
2013 Gary Jones[41]
2014 Stephen Darby[42]

Đội trưởng

Sau đây là danh sách các đội trưởng được bổ nhiệm chính thức trong đội hình chính của Bradford City.

TênQuốc giaNămGhi chúTham khảo
Charlie Bicknell  Anh1934–1936[43]
Bruce Stowell  Anh1967–1972[44]
Peter Jackson  Anh1982–1986City's youngest captain (started at 21 years old)[45]
Stuart McCall  Scotland1998–2002[cần dẫn nguồn]
David Wetherall  Anh2002–2008[46]
Graeme Lee  Anh2008–2009[47]
Peter Thorne  Anh2009–2010[48]
Simon Ramsden  Anh2010–2011[49]
Guy Branston  Anh2011[50]
Michael Flynn  Wales2011–2012[51]
Ricky Ravenhill  Anh2012[52]
Gary Jones  Anh2012–2014[53]
Stephen Darby  Anh2014–[54]

Những cựu cầu thủ

Năm 2007 cựu nhà báo thể thao của Telegraph & Argus David Markham phát hành quyển sách The Legends of Bradford City (Huyền thoại của Bradford City), được viết để đánh dấu kỉ niệm 100 năm thành lập CLB năm 2003. Nó đưa ra tiểu sử của 100 cầu thủ và nhân viên trong lịch sử của CLB. Đó là các cầu thủ:

  • Greg Abbott
  • Bruce Bannister
  • Sam Barkas
  • Bobby Bauld
  • Peter Beagrie
  • Charlie Bicknell
  • Robbie Blake
  • Dicky Bond
  • Irvine Boocock
  • Tommy Cairns
  • Bobby Campbell
  • Robert Campbell
  • Eddie Carr
  • Trevor Cherry
  • Joe Cooke
  • Ian Cooper
  • Terry Dolan
  • Peter Downsborough
  • Donald Duckett
  • Lee Duxbury
  • Roy Ellam
  • Mark Ellis
  • Dave Evans
  • Jock Ewart
  • Tommy Flockett
  • Oscar Fox
  • David Fretwell
  • Allan Gilliver
  • David Gray
  • John Hall
  • Tom Hallett
  • John Hallows
  • Bobby Ham
  • Joe Hargreaves
  • Derek Hawksworth
  • John Hendrie
  • George Hinsley
  • Don Hutchins
  • Gerry Ingram
  • David Jackson
  • Peter Jackson (born 1937)
  • Peter Jackson (born 1961)
  • Wayne Jacobs
  • Paul Jewell
  • Rod Johnson
  • Chris Kamara
  • Jimmy Lawlor
  • Jamie Lawrence
  • David Layne
  • Ken Leek
  • Peter Logan
  • Stuart McCall
  • Sean McCarthy
  • John McCole
  • Jimmy McDonald
  • Roy McFarland
  • Andy McGill
  • Jimmy McLaren
  • David McNiven
  • John Middleton
  • Brian Mitchell
  • Charlie Moore
  • George Mulholland
  • George Murphy
  • Graham Oates
  • Andy O'Brien
  • Gavin Oliver
  • Ian Ormondroyd
  • Frank O'Rourke
  • Peter O'Rourke
  • Harold Peel
  • Ces Podd
  • Ivor Powell
  • John Reid
  • Dean Richards
  • Arthur Rigby
  • George Robinson
  • Abe Rosenthal
  • Lee Sinnott
  • Geoff Smith
  • Jimmy Speirs
  • Derek Stokes
  • Charlie Storer
  • Bruce Stowell
  • Paul Tomlinson
  • Bob Torrance
  • Whelan Ward
  • Dickie Watmough
  • Billy Watson
  • Garry Watson
  • Bobby Webb
  • David Wetherall
  • Jock Whyte
  • George Williamson
  • Dean Windass

Nhân viên

Nhân viên hiện tại

Tính đến ngày 8 tháng 7 năm 2013[55]
Vị tríTênQuốc tịch
Chủ tịchJulian Rhodes  English
Chủ tịchMark Lawn  English
HLVPhil Parkinson  English
Trợ lý HLVSteve Parkin  English
HLV thủ mônLee Butler  English
HLV thể lựcNick Allamby  English
Trưởng ban tuyển dụngRuss Richardson  English
Quản lý đội trẻSteve Thornber  English
HLV đội trẻIan Ormondroyd  English
HLV đội trẻPeter Horne  English
Nhà vật lý trị liệuMatt Barrass  English
Nhà vật lý trị liệuChris Royston  English

Huấn luyện viên

  • Robert Campbell (1903–1905)
  • Peter O'Rourke (1905–1921)
  • David Menzies (1921–1926)
  • Colin Veitch (1926–1928)
  • Jack Foster (Caretaker manager) (Jan–May 1928)
  • Peter O'Rourke (1928–1930)
  • Jack Peart (1930–1935)
  • Dick Ray (1935–1937)
  • Fred Westgarth (1938–1943)
  • Bob Sharp (1943–1946)
  • Jack Barker (1946–1947)
  • Jack Milburn (1947–1948)
  • David Steele (1948–1952)
  • Albert Harris (Feb–May 1952)
  • Ivor Powell (1952–1955)
  • Peter Jackson (1955–1961)
  • Bob Brocklebank (1961–1964)
  • Bill Harris (1965–1966)
  • Willie Watson (1966–1967)
  • Grenville Hair (1967–1968)
  • Jim McAnearney & Tom Hallett (Joint caretaker managers) (Mar–May 1968)
  • Jimmy Wheeler (1968–1971)
  • Ray Wilson (Player/caretaker manager) (Sep–November 1971)
  • Bryan Edwards (1971–1975)
  • Bobby Kennedy (1975–1978)
  • John Napier (Feb–October 1978)
  • George Mulhall (1978–1981)
  • Roy McFarland (1981–1982)
  • Trevor Cherry (1982–1987)
  • Terry Dolan (1987–1989)
  • Terry Yorath (1989–1990)
  • John Docherty (1990–1991)
  • Frank Stapleton (1991–1994)
  • Lennie Lawrence (1994–1995)
  • Chris Kamara (1995–1998)
  • Paul Jewell (1998–2000)
  • Chris Hutchings (May–Nov 2000)
  • Stuart McCall (Player/caretaker manager) (Nov 2000)
  • Jim Jefferies (2000–2001)
  • Steve Smith (Caretaker manager) (December 2001)
  • Nicky Law (2002–2003)
  • Senior players[56] (November 2003)
  • Bryan Robson (2003–2004)
  • Colin Todd (2004–2007)
  • David Wetherall (Player/caretaker manager) (Feb–May 2007)
  • Stuart McCall (2007–2010)
  • Wayne Jacobs (Caretaker manager) (February 2010)
  • Peter Taylor (2010–2011)
  • Peter Jackson (March 2011 – August 2011)
  • Colin Cooper (Caretaker manager) (August 2011)
  • Phil Parkinson (August 2011–nay)

Danh hiệu

Mùa giải

Vô địch (1): 1907–08
Á quân (1): 1998–99[57]
Vô địch (1): 1984–85
Vô địch Play-off (1): 1995–96[58]
Á quân (1): 1981–82
Thăng hạng (2): 1968–69, 1976–77
Vô địch Play-off (1): 2012–13
  • Division Three (North)
Vô địch (1): 1928–29

Cúp

Bradford City's 1911 FA Cup Final winning goalscorer Jimmy Speirs
Vô địch (1): 1911
Á quân (1): 2013
  • Third Division North Challenge Cup
Vô địch (1): 1939
Á quân (1): 1938

Các kỉ lục

A graph showing Bradford City's league history
  • Trận thắng mùa giải đậm nhất: 11–1 v Rotherham United, Division Three (North), 25 tháng 8 năm 1928
  • Trận thắng FA Cup đậm nhất: 11–3 v Walker Celtic, đấu lại Vòng 1, 1 tháng 12 năm 1937
  • Trận thắng League Cup đậm nhất: 7–2 v Darlington, lượt về Vòng 2, 25 tháng 9 năm 2000
  • Trận thua mùa giải đậm nhất: 0–8 v Manchester City, Division Two, 7 tháng 5 năm 1927 / 1–9 v Colchester United, Division Four, 30 tháng 12 năm 1961
  • Trận thua FA Cup đậm nhất: 1–6 v Newcastle United, Vòng 3, 7 tháng 3 năm 1963 / 0–5 v Burnley, đấu lại Vòng 5, 3 tháng 2 năm 1960 / 0–5 v Tottenham Hotspur, Vòng 3, 7 tháng 1 năm 1970
  • Số khán giả đến xem nhiều nhất: 39,146 v Burnley, Vòng 4 FA Cup, 11 tháng 3 năm 1911
  • Giá vé vào cổng cao nhất: £300,000 v Arsenal F.C., Tứ kết Capital One Cup, 11 tháng 12 năm 2012
  • Chuỗi trận bất bại dài nhất: 21 1968 to 1969
  • Longest run of wins: 10 1983 to 1984
  • Cầu thủ ra sân nhiều lần nhất: 574 Ces Podd
  • Cầu thủ ra sân nhiều lần nhất trong các mùa giải: 502 – Ces Podd
  • Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất: 143 – Bobby Campbell
  • Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong các mùa giải: 121 – Bobby Campbell
  • Cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất trong một mùa giair: 36 – David Layne, 1961–62
  • Cầu thủ ghi nhiều bàn nhất trong một trậnMost goals scored in a match: 7 – Albert Whitehurst v Tranmere Rovers, Division Three (North), 6 tháng 3 năm 1929
  • Giá chuyển nhượng cao nhất phải trả: £2.5 million – David Hopkin, từ Leeds United, tháng 7 năm 2000
  • Giá chuyển nhượng cao nhất nhận được: £2 million – Des Hamilton, đến Newcastle United, tháng 3 năm 1997 / Andy O'Brien, đến Newcastle United, tháng 3 năm 2001
  • Số bàn thắng ghi nhiều nhất trong một mùa giải: 128 – Division Three (North), 1928–29
  • Số điểm nhiều nhất trong một mùa giải (3 điểm một trận thắng): 94 – Division Three, 1984–85
  • Số điểm nhiều nhất trong một mùa giải (2 điểm một trận thắng): 63 – Division Three (North), 1928–29

All records from Bradford City F.C. official website.[59]

Nhà tài trợ

Nhà tài trợ áo đấu và tài trợ chính

Giai đoạnNhà sản xuất áo đấuNhà tài trợ áo đấu
1982–1983PatrickNational Breakdown
1983–1984Toy City
1984–1985None
1985–1987AdmiralBradford Mythbreakers

(Bradford City Council)

1987–1988Bradford 'Great' City

(Bradford City Council)

1988–1991BuktaGrattan
1991–1992Front RunnerNone
1992–1993Freemans
1993–1994Admiral
1994–1997BeaverDiamond Seal
1997–1999JCT600[60]
1999–2001Asics
2001–2003BCFC Leisure
2003–2004Diadora
2004–2006Surridge Sport
2006–2009Bradford & Bingley
2009–2011Map Group (UK)
2011–2013Nike[61]
2013–2015JCT600[60]

Sân vận động

  • 1995–1999 The Pulse
  • 2005–2007 Bradford & Bingley
  • 2007 Intersonic
  • 2007– Coral Windows

Tham khảo