Các nền kinh tế đang nổi lên

Các nền kinh tế đang nổi lên là những nền kinh tế đang trong giai đoạn quá độ từ nền kinh tế đang phát triển thành nền kinh tế phát triển.[1] Tuy nhiên, không có tiêu chí rõ ràng và phổ biến nào để xác định một nền kinh tế có phải là nền kinh tế đang nổi lên hay không.[2] IMF thường xếp chung các nền kinh tế đang nổi lên và các nền kinh tế đang phát triển vào cùng một nhóm trong các tài liệu về kinh tế thế giới của mình mà không chia thành hai nhóm riêng. The Economist có tiêu chí xác định riêng dựa vào thông tin về đầu tư.[3] Morgan Stanley Capital International cũng có cách xác định riêng, và những nền kinh tế sau được tổ chức này coi là các nền kinh tế đang nổi lên:

Vị trí các nền kinh tế đang nổi lên trên bản đồ thế giới, theo Morgan Stanley Capital International 2006
  Các nền kinh tế đang nổi lên
  Các nền kinh tế phát triển

Danh sách các nền kinh tế đang nổi lên của The Economist tương tự như trên, nhưng có thêm Singapore, Hong KongẢ Rập Xê Út, không có Jordan.

Trong tài liệu của IMF thì Đài Loan, Hong Kong, Singapore, Hàn Quốc lại được xếp vào những nền kinh tế phát triển.

Viện Kinh tế Quốc tế của Mỹ có lập danh sách những nền kinh tế đang nổi lên lớn (LEMs) bao gồm 4 nước BRIC cộng với Argentina, Indonesia, Hàn Quốc, México, Ả Rập Xê Út, và Thổ Nhĩ Kỳ.

Thuật ngữ

Trong thập niên1970, "các nước kém phát triển" (LDCs) là thuật ngữ chung để chỉ các thị trường kém "phát triển" (bằng các biện pháp khách quan hoặc chủ quan) so với các nước phát triển như Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước Tây Âu. Những thị trường này được cho là mang lại tiềm năng lợi nhuận lớn hơn nhưng cũng có nhiều rủi ro hơn từ các yếu tố khác nhau như vi phạm bằng sáng chế. Thuật ngữ này đã được thay thế bằng thị trường mới nổi. Thuật ngữ này gây hiểu lầm ở chỗ không có gì đảm bảo rằng một quốc gia sẽ chuyển từ "kém phát triển" sang "phát triển hơn"; mặc dù đó là xu hướng chung trên thế giới, các nước cũng có thể chuyển từ “phát triển hơn” sang “kém phát triển hơn”.

Nhà kinh tế Antoine Van Agtmael của Ngân hàng Thế giới đã đặt ra thuật ngữ này vào năm 1981,[4] thuật ngữ này đôi khi được sử dụng một cách sơ sài để thay thế cho các nền kinh tế mới nổi, nhưng thực sự biểu thị một hiện tượng kinh doanh không được mô tả đầy đủ hoặc bị hạn chế bởi điều đó; những quốc gia này được coi là đang trong giai đoạn chuyển tiếp giữa trạng tháiđang phát triểnđã phát triển. Ví dụ về các thị trường mới nổi bao gồm nhiều nước ở Châu Phi, hầu hết các nước ở Đông Âu, một số nước ở Châu Mỹ Latinh, một số nước ở Trung Đông, Nga và một số nước ở Đông Nam Á. Nhấn mạnh tính chất linh hoạt của danh mục này, nhà khoa học chính trị Ian Bremmer định nghĩa thị trường mới nổi là "một quốc gia nơi chính trị ít quan trọng như kinh tế đối với thị trường".

Các quốc gia công nghiệp hóa mới, tính đến năm 2013. Đây là danh mục trung gian giữa phát triển hoàn chỉnh và đang phát triển

Nghiên cứu về các thị trường mới nổi rất phổ biến trong các tài liệu quản lý . Trong khi các nhà nghiên cứu như George Haley, Vladimir Kvint, Hernando de Soto, Usha Haley, và một số giáo sư từ Trường Kinh doanh HarvardTrường Quản lý Yale đã mô tả hoạt động ở các quốc gia như Ấn Độ và Trung Quốc thì việc thị trường nổi lên như thế nào vẫn có ít người hiểu.

Vào năm 2009, Tiến sĩ Kvint đã công bố định nghĩa này: "một quốc gia thị trường mới nổi là một xã hội chuyển đổi từ chế độ độc tài sang nền kinh tế định hướng thị trường tự do, với sự gia tăng tự do kinh tế, hội nhập dần dần với Thị trường toàn cầu và với các thành viên khác của GEM (Thị trường mới nổi toàn cầu), tầng lớp trung lưu ngày càng mở rộng, nâng cao mức sống, ổn định xã hội và sự khoan dung, cũng như tăng cường hợp tác với các tổ chức đa phương".[5]

Các quốc gia

Nhiều nguồn khác nhau liệt kê các quốc gia là "các nền kinh tế mới nổi" như được chỉ ra trong bảng dưới đây.

Một vài quốc gia xuất hiện trong mọi danh sách (BRICS, Mexico, Thổ Nhĩ Kỳ). Indonesia và Thổ Nhĩ Kỳ được phân loại cùng với Mexico và Nigeria là một phần của nền kinh tế MINT. Mặc dù không có các tham số được thống nhất chung mà các quốc gia có thể được phân loại là "Các nền kinh tế mới nổi", một số công ty đã phát triển các phương pháp luận chi tiết để xác định các nền kinh tế mới nổi hoạt động tốt nhất hàng năm.[6]

Các thị trường mới nổi theo từng nhóm nhà phân tích
Quốc giaIMF[7]BRICS+ Next ElevenFTSE[8]MSCI[9]S&P[10]EM bond index[11]Dow Jones[10]Russell[12]Đại học Columbia EMGP[13]Đại học Cornell EMI E20 + 1 (2021)[14]
 Argentina Y Y Y Y
 Bangladesh Y Y Y Y
 Brazil Y Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Bulgaria Y
 Chile Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 China Y Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Colombia Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Czech Republic Y Y Y Y Y Y
 Egypt Y Y Y Y Y Y Y Y
 Greece Y Y Y Y Y
 Hungary Y Y Y Y Y Y Y Y
 India Y Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Indonesia Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Iran Y Y
 Israel Y Y
 Kuwait Y Y Y
 Malaysia Y Y Y Y Y Y Y Y
 Mauritius Y
 Mexico Y Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Morocco Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Nigeria Y Y Y
 Oman Y
 Pakistan Y Y Y Y Y Y
 Peru Y Y Y Y Y Y Y
 Philippines Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Poland Y Y Y Y Y Y
 Qatar Y Y Y Y Y
 Romania Y Y Y
 Russia Y Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Saudi Arabia Y Y Y
 South Africa Y Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 South Korea Y Y Y
 Taiwan Y Y Y Y Y Y Y
 Thailand Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Turkey Y Y Y Y Y Y Y Y Y Y
 Ukraine Y Y
 United Arab Emirates Y Y Y Y Y Y Y
 Venezuela Y Y
 Vietnam Y

Nghiên cứu BBVA

Vào tháng 11 năm 2010, Nghiên cứu BBVA đã đưa ra một khái niệm kinh tế mới, để xác định các thị trường mới nổi quan trọng.[15]

Phân loại này được chia thành hai nhóm các nền kinh tế đang phát triển.

Kể từ tháng 3 năm 2014, các nhóm như sau:

EAGLEs (các nền kinh tế mới nổi và dẫn đầu tăng trưởng): GDP Gia tăng dự kiến trong 10 năm tới sẽ lớn hơn mức trung bình của các nền kinh tế G7, ngoại trừ Hoa Kỳ.

NEST: Dự kiến gia tăng GDP trong thập kỷ tới sẽ thấp hơn mức trung bình của các nền kinh tế G6 (G7 không bao gồm Mỹ) nhưng cao hơn của Ý.

Thị trường mới nổi khác

Chỉ số thị trường mới nổi

Chỉ số các thị trường mới nổi của MasterCard là danh sách 65 thành phố hàng đầu trong các thị trường mới nổi. Các quốc gia sau có các thành phố được đưa vào danh sách (tính đến năm 2008):

Các quốc gia có thành phố được đưa vào Chỉ số các thị trường mới nổi năm 2008

Châu lục/Khu vựcQuốc gia
Châu Phi  Egypt
 Kenya
 Morocco
 Nigeria
 Senegal
 South Africa
 Tunisia
Châu Á  China
 India
 Indonesia
 Lebanon
 Malaysia
 Pakistan
 Philippines
 Thailand
 Vietnam
Châu Âu  Bulgaria
 Hungary
 Poland
 Romania
 Russia
 Turkey
 Ukraine
Châu Mỹ Latin  Argentina
 Brazil
 Chile
 Colombia
 Dominican Republic
 Ecuador
 Mexico
 Peru
 Uruguay
 Venezuela

Kinh tế

Bảng dưới đây liệt kê 25 nền kinh tế mới nổi lớn nhất tính theo GDP (danh nghĩa) và GDP (PPP) trong năm cao điểm tương ứng. Các thành viên của G-20 nền kinh tế lớn được in đậm.

Xếp hạngQuốc giaGDP (danh nghĩa, năm cao điểm)
hàng triệu USD
Peak Year
1  China16,862,9792021
2  India3,022,0612019
3  Brazil2,614,0272011
4  Russia2,288,4282013
5  South Korea1,823,8522021
6  Mexico1,315,3562014
7  Indonesia1,150,2452021
8  Iran1,081,3832021
9  Turkey957,5042013
10  Saudi Arabia842,5882021
11  Taiwan785,5892021
12  Poland655,3322021
13  Argentina643,8612017
14  Nigeria568,4992014
15  Thailand546,2232021
16  Israel467,5322021
17  South Africa458,7082011
18  United Arab Emirates422,2152018
19  Egypt396,3282021
20  Philippines385,7372021
21  Colombia382,0932013
22  Singapore378,6452021
23  Malaysia371,1142021
24  Hong Kong369,7222021
25  Vietnam368,0022021
Xếp hạngQuốc giaGDP (PPP, Peak Year)
hàng triệu USD
Peak Year
1  China27,071,9592021
2  India10,181,1662021
3  Russia4,447,4772021
4  Indonesia3,530,3292021
5  Brazil3,437,6092021
6  Turkey2,873,8412021
7  Mexico2,685,2532021
8  South Korea2,503,3952021
9  Saudi Arabia1,734,2342021
10  Taiwan1,443,4112021
11  Poland1,412,2972021
12  Egypt1,381,0572021
13  Iran1,344,0862011
14  Thailand1,339,0602019
15  Pakistan1,157,4802021
16  Vietnam1,141,3002021
17  Nigeria1,136,7952021
18  Argentina1,049,4012021
19  Philippines1,004,5082019
20  Malaysia969,0392021
21  Bangladesh953,3852021
22  South Africa861,9292021
23  Colombia812,7992021
24  United Arab Emirates699,4442021
25  Romania653,9032021

Xem thêm

Nguồn

Liên kết ngoài

Tham khảo