Đà Lôi vẫn còn rất nhỏ tuổi để phò tá Thành Cát Tư Hãn trong thời kỳ phụ hãn của ông thống nhất Mông Cổ. Đà Lôi thậm chí suýt bị sát hại bởi kẻ thù Thát Đát (Tatar) lúc ông mới 5 tuổi, nhưng may mắn được cứu sống bởi người chị gái Altani cùng 2 cận vệ của Thành Cát Tư Hãn[1]. Năm 1203, ông đính ước với cháu gái của một người bạn thân thiết với tổ phụ Dã Tốc Cai, tên là Toa Lỗ Hoà Thiếp Ni, lúc này ông mới 10 tuổi.
Từ năm 1213, Đà Lôi phò tá Thành Cát Tư Hãn trong chiến dịch nam hạ chống lại nhà Kim. Đến năm 1221,ông lập được thêm nhiều chiến công trong cuộc tây chinh thôn tính đế chế Hoa Thích Tử Mô (Khwarezm). Đặc biệt, chính ông đã chỉ huy chiếm giữ và thảm sát tại 2 thành phố lớn ở Trung Á là Nishapur và Merv, khi họ nổi dậy chống lại người Mông Cổ.
Khi Thành Cát Tư Hãn phải quyết định người kế vị ngôi Đại Hãn, ông đã cân nhắc việc lựa chọn giữa Đà Lôi và Oa Khoát Đài. Mặc dù Đà Lôi là một chỉ huy quân sự xuất sắc trên chiến trường, cũng là người giống với phụ hãn nhất, nhưng cuối cùng Thành Cát Tư Hãn đã chọn Oa Khoát Đài do năng lực chính trị của Oa Khoát Đài vượt trội hơn Đà Lôi.
Sau khi Thành Cát Tư Hãn băng hà năm 1227, Đà Lôi làm giám quốc trong 2 năm, xưng hiệu Dã khả na nhan (chữ Mông Cổ:ᠶᠡᠬᠡ ᠨᠣᠶᠠᠨ; chuyển tự La Mã: Yeqe noyan; chuyển tự Cyrill: Их ноён).
Đến năm 1229, ông cùng các anh em triệu tập các quý tộc Mông Cổ tại hội nghị Khố Lý Đài (phiên âm Hán: 蒙古语, Kurultai) để bàn việc tuyển chọn người kế vị. Hầu hết quý tộc Mông Cổ tôn Đà Lôi làm Đại Hãn mới, vì theo tục lệ Mông Cổ, con út được kế thừa sản nghiệp của cha còn con lớn ra ngoài lập nghiệp. Ulus (đất đai di sản thừa kế) của ông vào thời điểm năm 1227, là các vùng đất tại thảo nguyên Mông Cổ. Một lý do khác là vì lúc bấy giờ Đà Lôi đang nắm phần lớn binh lực của đế quốc. Vào thời điểm Thành Cát Tư Hãn băng hà, tổng quân doanh Mông Cổ có 13 vạn quân, thì có đến 10 vạn quân tinh nhuệ nằm dưới sự cai quản của Đà Lôi. Dù vậy, Đà Lôi đã từ chối và cùng với người anh trai thứ hai là Sát Hợp Đài (Chagadai) kiên quyết tuân theo ý nguyện của phụ hãn, tôn Oa Khoát Đài lên ngôi Đại Hãn.
Năm 1231, Oa Khoát Đài tiếp tục khởi binh phạt nhà Kim để hoàn tất tâm nguyện còn dang dở của Thành Cát Tư Hãn. Trong chiến dịch này, Đà Lôi được giao một cánh quân, đi vòng qua Thiểm Tây để tập kích hậu phương quân Kim tại Biện Kinh[2]. Tuy nhiên, chiến dịch chưa được hoàn thành thì khỏang một năm sau, tháng 9 (âm lịch) năm 1232, Đà Lôi ốm nặng và qua đời ở thảo nguyên Mông Cổ.
Cuộc đời của Đà Lôi quá ngắn ngủi, dù ông có giữ vị trí quan trọng trong việc tôn Oa Khoát Đài lên ngôi Đại Hãn, nhưng vẫn không để lại dấu ấn đặc biệt. Có lẽ điều quan trọng nhất là vai trò của gia đình ông trong sự hình thành và phát triển của đế quốc Mông Cổ. Các con của ông là Mông Ca, Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca đều trở thành Đại Hãn, đưa ông trở thành tổ tiên của các Đại Hãn cuối cùng cai trị đế quốc Mông Cổ (Mông Kha và Hốt Tất Liệt), và sau này là nhà Nguyên tại Trung Quốc (do Hốt Tất Liệt sáng lập), cũng như của hãn quốc Y Nhi (Ilkhanate,do Húc Liệt Ngột lập ra).
Sự bất hòa của gia tộc Đà Lôi với hậu duệ của Oa Khoát Đài và Truật Xích gây ra nội chiến ngầm trong từ sau khi Oa Khoát Đài băng hà đến tận khi con trai của ông là Quý Do trị vì, từ đó khiến đế quốc Mông Cổ bị phân ly thành các Hãn quốc nhỏ hơn.
Mâu thuẫn thậm chí cũng xảy ra giữa các con của Đà Lôi, chẳng hạn như nội chiến gia tộc Đà Lôi giữa Hốt Tất Liệt và A Lý Bất Ca trong 4 năm (1260 - 1264) đã làm chia rẽ lực lượng của đế quốc, khiến cho các Hãn quốc chống đối lẫn nhau trong thời kỳ đầu thập niên 1260.
Trong truyện này, Đà Lôi kết nghĩa an đáp (kết nghĩa huynh đệ) với nhân vật chính Quách Tĩnh. Ông cũng là người đầu tiên đem quân tấn công thành Tương Dương nhưng do Thành Cát Tư Hãn đột nhiên ốm nặng nên đành rút quân về. Gần 20 năm sau, ông ốm nặng và qua đời, trao quyền lại cho con trai ông. Con trai của Đà Lôi liên tiếp tấn công Tương Dương nhưng đều thất bại dưới sự phòng thủ của Quách Tĩnh. Khi Quách Tĩnh đã già, cháu nội Đà Lôi đã đánh bại Tương Dương thành.