Milan Baroš

Milan Baroš (phát âm tiếng Séc: [ˈmɪlan ˈbaroʃ]; sinh ngày 28 tháng 10 năm 1981) là một cựu cầu thủ bóng đá Séc thi đấu ở vị trí tiền đạo.

Milan Baroš
Baroš trong màu áo Baník Ostrava năm 2018
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủMilan Baroš[1]
Ngày sinh28 tháng 10, 1981 (42 tuổi)[1]
Nơi sinhValašské Meziříčí, Tiệp Khắc
Chiều cao1,82 m (6 ft 0 in)[2]
Vị tríTiền đạo
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
NămĐội
1987–1991Vigantice
1991–1993Rožnov p. Radhoštěm
1993–1998Baník Ostrava
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
NămĐộiST(BT)
1998–2001Baník Ostrava76(22)
2002–2005Liverpool68(19)
2005–2007Aston Villa42(9)
2007–2008Lyon24(7)
2008Portsmouth F.C. (mượn)12(0)
2008–2013Galatasaray93(48)
2013Baník Ostrava12(5)
2013–2014Antalyaspor13(2)
2014–2015Baník Ostrava11(2)
2015–2016Mladá Boleslav21(6)
2016–2017Slovan Liberec24(5)
2017–2020Baník Ostrava58(16)
Tổng cộng454(141)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
NămĐộiST(BT)
1996–1997U-15 Cộng hòa Séc7(3)
1997–1998U-16 Cộng hòa Séc5(1)
1998U-17 Cộng hòa Séc4(1)
1998–2000U-18 Cộng hòa Séc19(5)
1999–2002U-21 Cộng hòa Séc19(9)
2001–2012Cộng hòa Séc93(41)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 1 tháng 2 năm 2019

Vào năm 2005, anh cùng Liverpool vô địch UEFA Champions League. Sau đó anh vô địch Ligue 1 cùng Lyon năm 2007, vô địch Cúp FA với Portsmouth năm 2008 và vô địch Thổ Nhĩ Kỳ với Galatasaray năm 2012. Anh có nhiều lần thi đấu cho Baník Ostrava và từng đá cho Aston Villa của Anh.

Baroš khoác áo Cộng hòa Séc 93 lần, ghi 41 bàn. Anh giành giải vua phá lưới Giải vô địch bóng đá châu Âu 2004, giải đấu mà Cộng hòa Séc vào tới bán kết. Với 41 bàn cho Cộng hòa Séc, anh là chân sút ghi nhiều bàn thắng thứ hai chỉ sau Jan Koller.

Ngày 3 tháng 7 năm 2020, Milan Baroš chính thức giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế sau 33 năm thi đấu chuyên nghiệp.

Sự nghiệp câu lạc bộ

Liverpool

Baroš gia nhập Liverpool năm 2002 và mang áo số 5. Mùa giải đầu tiên anh chỉ được ra sân 1 lần duy nhất. Đến mùa giải tiếp theo anh ghi được 12 bàn. Mùa giải 2003/2004, Baros chấn thương mắt cá chân nặng phải nghỉ thi đấu 6 tháng và chỉ ghi được 2 bàn cả mùa giải.

Sau khi giành danh hiệu vua phá lưới Euro 2004, Baros tiếp tục ở lại Liverpool dưới thời Rafael Benitez. Mùa giải 2004/2005, anh ghi được 13 bàn và cùng Liverpool giành danh hiệu vô địch UEFA Champions League khi đánh bại AC Milan trong trận chung kết. Tuy nhiên sau đó Baros phải rời câu lạc bộ khi nhiều tiền đạo khác chuyển đến như Peter Crouch từ Southampton.

Aston Villa

Baroš chuyển đến Aston Villa với phí chuyển nhượng 6,5 triệu bảng Anh vào tháng 8 năm 2005 cùng bản hợp đồng 4 năm.[3]. Tại đây anh mang áo số 10. Anh kết thúc mùa giải với 8 bàn thắng trong 25 trận và 3 bàn ở Cúp F.A., 1 bàn ở Cúp Liên đoàn.

Mùa giải tiếp theo Baroš thi đấu rất tệ. Đầu mùa giải anh được Martin O'Neill cho đá chính thức bên cạnh Juan Pablo Ángel nhưng anh sớm dính chấn thương và mất vị trí chính thức. Bàn thắng cuối cùng của Baros cho Aston Villa là bàn thắng vào lưới Manchester United tại Cúp F.A. trước khi anh chuyển đến Lyon theo bản hợp đồng trao đổi với John Carew.

Tại Aston Villa, Baroš ghi được 14 bàn sau 51 lần ra sân.

Lyon

Ngày 22 tháng 1 2007, Baroš ký hợp đồng với Lyon và tại đây anh gặp lại huấn luyện viên cũ Gérard Houllier.

Đến mùa giải 2007/2008, Gérard Houllier ra đi và Alain Perrin trở thành huấn luyện viên trưởng Lyon. Trong 2 mùa bóng thi đấu cho Lyon (nửa cuối 2006/2007 và nửa đầu 2007/2008), Baros ghi được 7 bàn qua 24 lần ra sân. Trong thời gian thi đấu cho Lyon, anh còn gặp 1 rắc rối về pháp luật khi lái xe hơi quá tốc độ và bị cảnh sát Pháp bắt.[4].

Portsmouth

Ngày 27 tháng 1 2008, Milan hoàn tất hợp đồng cho mượn từ Lyon đến Portsmouth F.C cho đến hết mùa 2007/2008 với điều khoản Portsmouth có thể mua đứt anh với giá 7.000.000 [5]. Baroš có trận đầu tiên với Portsmouth khi gặp Manchester United vào ngày 30 tháng 1 năm 2008.

Trong 16 trận ra sân cho Portsmouth, Baroš không ghi được bàn nào. Trận đấu cuối cùng tại mùa giải 2007/2008 là trận chung kết Cúp F.A. gặp Cardiff City tại sân Wembley khi anh vào sân thay Kanu vào phút 87 và cùng Portsmouth giành FA Cup lần đầu tiên.

Galatasaray

Baroš chính thức chuyển đến thi đấu cho câu lạc bộ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ Galatasaray với hợp đồng 3 năm cùng phí chuyển nhượng 5.5 triệu từ Lyon vào ngày 26 tháng 8 năm 2008. Anh có trận đầu tiên cho câu lạc bộ mới trong cuộc đối đầu Kayserispor, nhưng anh chỉ thi đấu 15 phút cuối trận.

Baroš có cú đúp đầu tiên tại UEFA Cup trong trận gặp đội bóng Thụy Sĩ Bellinzona ngày 18 tháng 12 năm 2008.[6] 3 ngày sau đó, tại giải trong nước, anh tiếp tục ghi 2 bàn nữa trong cuộc đối đầu Kocaelispor, giúp Galatasaray giành chiến thắng 4-1.[7]

Ngày 21 tháng 12 năm 2008, với 14 bàn thắng, Baroš đã dẫn đầu danh sách vua phá lưới tại Süper Lig trong đó có hat-trick vào lưới Beşiktaş giúp Galatasaray giành chiến thắng 4-2.[8] Anh kết thúc mùa giải 2008-2009 bằng danh hiệu vua phá lưới với 20 bàn thắng.

Baroš bắt đầu mùa giải mới 2009-10 bằng cú đúp trong trận thắng 4-1 trước Kayserispor.[9] Hai bàn thắng kế tiếp của anh đến vào ngày 13 tháng 9 trong trận Galatasaray giành chiến thắng 3-0 trước Beşiktaş.[10]

Antalyaspor

Ngày 11 tháng 6 năm 2013, anh gia nhập câu lạc bộ Thổ Nhĩ Kỳ Antalyaspor, bản hợp đồng có thời hạn 1 năm.

Sự nghiệp đội tuyển quốc gia

Baroš được gọi vào đội tuyển quốc gia từ năm 2001. Tại Euro 2004, Baros ghi được 5 bàn vào lưới Latvia, Đức, Hà LanĐan Mạch để giành giải vua phá lưới Euro và nhận danh hiệu Chiếc giày vàng.

Tại World Cup 2006, chấn thương khiến anh vắng mặt ở 2 trận gặp MỹGhana. Anh chỉ xuất hiện trong trận cuối gặp Ý và thất bại 0-2 của Cộng hòa Séc khiến họ bị loại ngay vòng bảng.

Đến Euro 2008, Baroš tiếp tục được huấn luyện viên Karel Brückner gọi vào đội tuyển dù anh bị nhiều người chỉ trích vì phong độ của mình. Trận đầu tiên gặp Thụy Sĩ anh không được ra sân. Đến trận gặp Bồ Đào Nha anh được ra sân từ đầu nhưng không ghi được bàn thắng nào. Trong trận gặp Thổ Nhĩ Kỳ, Baroš không được thi đấu phút nào nhưng cũng bị lãnh một thẻ vàng vì lỗi phản ứng với trọng tài. Kết quả Séc thua 3-2 và bị loại khỏi giải ngày sau vòng đấu bảng.

Baroš sau đó đã bị nhận một án kỷ luật từ đội tuyển do một buổi nhậu nhẹt qua đêm cùng năm cầu thủ khác vào ngày 8 tháng 4 năm 2009.[11] Tuy nhiên, tân huấn luyện viên trưởng đội tuyển Cộng hòa Séc Ivan Hašek đã gọi anh trở lại đội tuyển vào ngày 12 tháng 8, 2009. Anh đánh dấu sự trở lại bằng bàn thắng từ chấm phạt đền trong chiến thắng 3-1 trước Bỉ trong một trận giao hữu. Ngày 9 tháng 9, Baroš ghi được 4 bàn trong trận đấu gặp San Marino tại vòng loại World Cup 2010. Chung cuộc CH Séc thắng San Marino 7-0.[12]

Ngay sau khi Cộng hòa Séc để thua 0-1 trước Bồ Đào Nha tại tứ kết Euro 2012, Milan Baroš đã quyết định giã từ sự nghiệp thi đấu quốc tế với 41 bàn thắng sau 93 trận đấu.

Phong cách thi đấu

Baroš có biệt danh "Maradona xứ Ostravan" tại Cộng hòa Séc do có sự tương đồng với huyền thoại bóng đá người Argentina Diego Maradona.[13] Anh được chú ý đặc biệt vì là một cầu thủ nhanh nhẹn với kỹ năng rê bóng tuyệt vời.

Cuộc sống cá nhân

Milan Baroš đã kết hôn với Tereza Franková.[14] Con trai của họ, Patrick, ra đời vào ngày 1 tháng 9 năm 2009.[15]

Thống kê sự nghiệp

Câu lạc bộ

Tính đến 5 tháng 4 năm 2015
Câu lạc bộMùaGiải quốc giaCúp quốc giaCúp Liên đoànChâu ÂuTổng
HạngTrậnBànTrậnBànTrậnBànTrậnBànTrậnBàn
Baník Ostrava1998–99Giải VĐ CH Séc600060
1999–2000Giải VĐ CH Séc29600296
2000–01Giải VĐ CH Séc26600266
2001–02Giải VĐ CH Séc1511001511
Tổng7623007623
Liverpool2001–02Premier League0000001010
2002–03Premier League27910429142[A]12
2003–04Premier League131100041182
2004–05Premier League26910421424513
2005–06Premier League2000000020
Tổng6819308428410827
Aston Villa2005–06Premier League25833213012
2006–07Premier League1711130212
Tổng42944515114
Lyon2006–07Ligue 1124001010144
2007–08Ligue 1123000030153
Tổng247001040297
Portsmouth2007–08Premier League1204000160
Tổng1204000160
Galatasaray2008–09Süper Lig312000954025
2009–10Süper Lig171100652316
2010–11Süper Lig17900221911
2011–12Süper Lig28800288
2012–13Süper Lig0000000000
Tổng934800171211060
Baník Ostrava2012–1312500125
Tổng12500125
Antalyaspor2013–14Süper Lig13232164
Tổng13232164
Baník Ostrava2014–15Giải VĐ CH Séc920092
Tổng920092
Mladá Boleslav2015–16Giải VĐ CH Séc
Tổng
Tổng sự nghiệp3491151461454916427142

Đội tuyển quốc gia

Baroš trong mùa áo đội tuyển quốc gia CH Séc
Đội tuyển quốc gia Cộng hòa Séc
NămTrậnBàn
200184
200264
200374
2004139
2005115
200684
200781
200891
200986
201010
201171
201272
Tổng cộng9341

Bàn thắng quốc tế

Bàn thắng của CH Séc liệt kê trước.[16]
#NgàyĐịa điểmTrận thứĐối thủGhi bànKết quảGiải đấu
1.25 tháng 4 năm 2001Sân vận động Letná, Praha, Cộng hòa Séc1  Bỉ1–11–1Giao hữu
2.6 tháng 6 năm 2001Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc2  Bắc Ireland3–13–1Vòng loại World Cup 2002
3.5 tháng 9 năm 20015  Malta3–23–2
4.6 tháng 10 năm 2001Sân vận động Letná, Praha, Cộng hòa Séc6  Bulgaria6–06–0
5.6 tháng 9 năm 200212  Nam Tư3–05–0Giao hữu
6.5–0
7.16 tháng 10 năm 2002Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc13  Belarus2–02–0Vòng loại Euro 2004
8.20 tháng 11 năm 200214  Thụy Điển3–23–2Giao hữu
9.12 tháng 2 năm 2003Stade de France, Saint-Denis, Pháp15  Pháp2–02–0
10.30 tháng 4 năm 2003Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc18  Thổ Nhĩ Kỳ4–04–0
11.6 tháng 9 năm 2003Sân vận động Dinamo, Minsk, Belarus20  Belarus2–13–1Vòng loại Euro 2004
12.10 tháng 9 năm 2003Toyota Arena, Praha, Cộng hòa Séc21  Hà Lan3–13–1
13.31 tháng 3 năm 2004Lansdowne Road, Dublin, Cộng hòa Ireland22  Cộng hòa Ireland1–11–2Giao hữu
14.2 tháng 6 năm 2004Toyota Arena, Praha, Cộng hòa Séc24  Bulgaria1–03–1
15.6 tháng 6 năm 2004Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc25  Estonia1–02–0
16.2–0
17.15 tháng 6 năm 2004Sân vận động Thành phố Aveiro, Aveiro, Bồ Đào Nha26  Latvia1–12–1Euro 2004
18.19 tháng 6 năm 200427  Hà Lan2–23–2
19.23 tháng 6 năm 2004Sân vận động José Alvalade, Lisboa, Bồ Đào Nha28  Đức2–12–1
20.27 tháng 6 năm 2004Sân vận động Dragão, Porto, Bồ Đào Nha29  Đan Mạch2–03–0
21.3–0
22.12 tháng 2 năm 2005Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc36  Phần Lan1–04–3Vòng loại World Cup 2006
23.30 tháng 3 năm 2005Sân vận động Comunal d'Aixovall, Andorra la Vella, Andorra37  Andorra2–04–0
24.4 tháng 6 năm 2005Sân vận động Nisy, Liberec, Cộng hòa Séc38  Andorra5–18–1
25.8 tháng 6 năm 2005Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc39  Macedonia6–16–1
26.7 tháng 9 năm 2005Sân vận động Andrův, Olomouc, Cộng hòa Séc42  Armenia3–04–1
27.26 tháng 5 năm 2006Tivoli-Neu, Innsbruck, Áo47  Ả Rập Xê Út1–02–0Giao hữu
28.7 tháng 10 năm 2006Sân vận động Nisy, Liberec, Cộng hòa Séc51  San Marino3–07–0Vòng loại Euro 2008
29.7–0
30.15 tháng 11 năm 2006Toyota Arena, Praha, Cộng hòa Séc53  Đan Mạch1–11–1Giao hữu
31.24 tháng 3 năm 200755  Đức1–21–2Vòng loại Euro 2008
32.20 tháng 8 năm 2008Sân vận động Wembley, Luân Đôn, Anh66  Anh1–02–2Giao hữu
33.12 tháng 8 năm 2009Na Stínadlech, Teplice, Cộng hòa Séc74  Bỉ2–13–1
34.5 tháng 9 năm 2009Tehelné pole, Bratislava, Slovakia75  Slovakia2–22–2Vòng loại World Cup 2010
35.9 tháng 9 năm 2009Sân vận động bóng đá Thành phố, Uherske Hradiste, Cộng hòa Séc76  San Marino1–07–0Vòng loại World Cup 2010
36.2–0
37.3–0
38.5–0
39.29 tháng 3 năm 2011Sân vận động Střelecký ostrov, České Budějovice, Cộng hòa Séc81  Liechtenstein1–02–0Vòng loại Euro 2012
40.29 tháng 2 năm 2012Sân vận động Aviva, Dublin, Cộng hòa Ireland87  Cộng hòa Ireland1–01–1Giao hữu
41.26 tháng 5 năm 2012Profertil Arena, Hartberg, Áo88  Israel1–02–1

Danh hiệu

Câu lạc bộ

Liverpool
Olympique Lyon
Portsmouth
Galatasaray
  • Süper Lig: 2011–12
  • Siêu cúp bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ: 2012

Đội tuyển quốc gia

Cá nhân

  • Chiếc giày vàng Euro 2004
  • Đội hình tiêu biểu Euro 2004
  • Vua phá lưới Süper Lig 2008-09: 20 bàn

Tham khảo

Liên kết ngoài