Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung Bộ, phía bắc giáp tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng, phía nam giáp các tỉnh Quảng Ngãi và Kon Tum, phía đông giáp Biển Đông, phía tây giáp tỉnh Sekong của Lào.
Trước kia Quảng Nam là đất Chiêm Thành. Năm 1306 theo thỏa ước giữa vua Chiêm Thành là Chế Mân và vua Đại Việt là Trần Nhân Tông thì vua Chế Mân dâng hai châu Ô tức Thuận Châu (nam Quảng Trị, Huế) và châu Rí tức Hóa Châu (một phần Huế, bắc sông Thu Bồn) làm sính lễ cưới con gái vua Trần Nhân Tông là công chúa Huyền Trân. Người Việt dần định cư tại hai vùng đất mới; người Chiêm Thành lùi dần về vùng đất còn lại phía Nam của vương quốc.
Năm 1402, Nhà Hồ thay thế Nhà Trần. Nhà Hồ chia Hóa Châu thành 4 châu nhỏ hơn là Thăng Châu, Hóa Châu, Tư Châu và Nghĩa Châu và đặt An Phủ Sứ cai trị.
Năm 1408, Trần Ngỗi khởi nghĩa ở Nghệ An, hai viên quan Đặng Tất ở Hóa Châu (Huế) và Nguyễn Cảnh Chân ở Thăng Hoa (Quảng Nam). Tháng Giêng âm lịch năm 1408, Trần Ngỗi đánh 4 vạn quân Trương Phụ ở Bô Cô (Nam Định). Các nông dân Phạm Tất Đại, Phạm Chấn, Trần Nguyệt Hồ, Lê Ngã kéo về theo quân Trần Ngỗi. Nhưng có người gièm pha với Trần Ngỗi rằng hai viên quan kia là con hoàng xà đã biến thành nên Trần Ngỗi giết chết Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân. Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đưa con Trần Ngạc là Trần Quý Khoáng tiếm quyền.
Năm 1471, sau khi chiếm vùng đất phía Nam Thuận Hóa cho đến đèo Cù Mông, vua Lê Thánh Tông lập thêm đơn vị hành chính thứ 13 - Thừa Tuyên Quảng Nam gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (nay là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Danh xưng Quảng Nam xuất hiện từ đây.
Sang thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, Quảng Nam thuộc quyền cai quản của Chúa Nguyễn (từ năm 1570). Hội An được nhà chúa chọn là điểm giao thương duy nhất với thế giới khi đó nên nhiều thương gia nước ngoài hay gọi vùng đất này là "Quảng Nam Quốc". Biên niên sử thời Nguyễn đã chép về giai đoạn này như sau: "Chúa ở trấn hơn 10 năm, (chúa Tiên Nguyễn Hoàng) chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một đô hội lớn".
Đến giữa thế kỷ XVII, việc triều chính xứ Đàng Trong suy đồi. Thuế thì nặng; quan lại thì lợi dụng địa vị, sinh sự làm khổ dân. Trước hoàn cảnh đó, khi phong trào Tây Sơn bùng nổ, dân Quảng Nam cũng nổi dậy. Mùa thu năm 1773 khi quân Tây Sơn kéo ra Quảng Nam, dân Quảng Nam đã phối hợp cùng nghĩa quân phục kích ở Bến Đá (Thạch Tân, Thăng Hoa, Quảng Nam) đánh bại quân của Chúa Nguyễn do các tướng Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Hữu Sách chỉ huy. Nhà Tây Sơn tuy vậy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi.
Năm 1806 vua Gia Long thống nhất đất nước. Về hành chính, vua chia đất nước thành 23 trấn và 4 doanh thuộc đất kinh kỳ gồm Trực Lệ-Quảng Đức, Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Nam doanh.
Năm 1831, vua Minh Mạng đổi trấn và doanh thành tỉnh. Quảng Nam chính thức trở thành tỉnh từ năm này. Tỉnh Quảng Nam được chia thành 2 phủ Thăng Bình (升平) (trước là Thăng Hoa (gồm các huyện Lễ Dương (醴陽) Tam Kỳ (三岐), Hà Đông (河東), Quế Sơn (桂山)) và Điện Bàn 奠磐 (với các huyện Hòa Vang (和榮), Duy Xuyên (濰川), Diên Phúc (延福) (sau đổi là Diên Phước), Đại Lộc (大祿)).
Năm 1888, dưới triều vua Thành Thái, Đà Nẵng bị tách khỏi Quảng Nam để trở thành đất nhượng địa của thực dân Pháp.
Dân số tỉnh Quảng Nam 1967[1] | |
---|---|
Quận | Dân số |
Đại Lộc | 48.693 |
Điện Bàn | 158.761 |
Đức Dục | 46.461 |
Duy Xuyên | 83.206 |
Hiếu Đức | 14.906 |
Hiếu Nhơn | 81.442 |
Hòa Vang | 90.450 |
Quế Sơn | 72.629 |
Thường Đức | 16.963 |
Tổng số | 613.511 |
Sau Hiệp định Genève, tỉnh Quảng Nam thời Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1956 lại chia thành hai tỉnh mới lấy sông Rù Rì (tên gọi khác của sông Ly Ly) làm ranh giới là Quảng Nam ở phía Bắc gồm chín quận và Quảng Tín ở phía Nam gồm sáu quận.
Chín quận của Quảng Nam là:
Tỉnh lỵ đóng tại Hội An thuộc quận Hiếu Nhơn (Hội An) [2].
Tỉnh Quảng Tín, từ sông Ly Ly vào đến Dốc Sỏi (ranh giới giữa Quảng Nam và Quảng Ngãi), gồm 5 quận:
Dân số Quảng Tín lúc đó là 353.752 người; tỉnh lỵ đóng tại Tam Kỳ.
Sau khi thống nhất đất nước, chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định hợp nhất hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín với Đặc khu Quảng Đà và Thành phố Đà Nẵng để thành lập tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng với Thành phố Đà Nẵng là tỉnh lị.
Sau khi thành lập tỉnh, có những thay đổi hành chính như sau: chuyển thị xã Đà Nẵng thành thành phố Đà Nẵng, hợp nhất thị xã Tam Kỳ và 2 huyện Bắc Tam Kỳ, Nam Tam Kỳ thành huyện Tam Kỳ. Tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có 14 đơn vị hành chính gồm thành phố Đà Nẵng (tỉnh lị), thị xã Hội An và 12 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hòa Vang, Phước Sơn, Quế Sơn, Tam Kỳ, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My.
Năm 1978, thành lập một số xã thuộc thị xã Hội An và huyện Hiên.[3]
Năm 1979, điều chỉnh địa giới huyện Trà My và huyện Tam Kỳ; hợp nhất một số xã thuộc huyện Tam Kỳ.[4]
Năm 1981, chia tách một số xã thuộc các huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Điện Bàn, Giằng, Trà My, Tiên Phước, Phước Sơn, Hòa Vang; điều chỉnh địa giới huyện Tiên Phước và huyện Trà My.[5]
- Thành lập xã Quế Long trên cơ sở một phần xã Quế Phong.
- Thành lập xã Quế Trung trên cơ sở một phần xã Quế Lộc.
- Thành lập xã Quế Ninh và xã Quế Lâm trên cơ sở một phần xã Quế Phước.
- Thành lập xã Quế Bình và xã Quế Lưu trên cơ sở một phần xã Quế Tân.
- Thành lập thị trấn Trà My trên cơ sở một phần xã Tiên Trà.
- Thành lập xã Trà Giang trên cơ sở phần còn lại xã Tiên Trà, một phần xã Trà Liên và xã Trà Giác.
- Thành lập xã Trà Tân trên cơ sở một phần xã Trà Giác
- Thành lập thị trấn Tiên Kỳ trên cơ sở toàn bộ xã Tiên Kỳ.
- Giải thể xã Tiên Quang. Thành lập xã Tiên Cẩm và xã Tiên Hà trên cơ sở toàn bộ xã Tiên Quang.
- Thành lập xã Hòa Bắc trên cơ sở một phần xã Hòa Liên.
- Thành lập xã Hòa Ninh trên cơ sở một phần xã Hòa Sơn.
Năm 1982, thành lập huyện đảo Hoàng Sa trên cơ sở quần đảo Hoàng Sa hiện nay đang bị Trung Quốc chiếm giữ trái phép kể từ năm 1974 đến nay.[6]
Năm 1983, chia tách một số xã thuộc các huyện Tam Kỳ, Quế Sơn, Trà My.[7]. Cùng năm, chia huyện Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện Núi Thành.[8]
Năm 1984, chia tách một số xã, thị trấn thuộc các huyện Đại Lộc và Thăng Bình.[9]
Năm 1985, chia tách một số xã thuộc thị xã Tam Kỳ[10]. Cùng năm, thành lập huyện Hiệp Đức trên cơ sở tách 2 xã thuộc huyện Thăng Bình, 4 xã thuộc huyện Quế Sơn và 2 xã thuộc huyện Phước Sơn[11].
- Thành lập xã Tam Lộc trên cơ sở một phần xã Tam Phước.
- Thành lập xã Tam Vinh trên cơ sở một phần xã Tam Dân.
Năm 1986, chia tách một số xã, thị trấn thuộc các huyện Quế Sơn, Hiệp Đức, Hòa Vang[12], Phước Sơn, Duy Xuyên[13] và Trà My[14].
Năm 1988, chia tách một số xã thuộc các huyện Trà My và Quế Sơn.[15]
Năm 1990, chia tách một số xã thuộc huyện Hiệp Đức.
Năm 1994, chia tách, điều chỉnh địa giới một số xã và đổi tên thị trấn thuộc các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Hiên, Quế Sơn, Núi Thành và thị xã Tam Kỳ.[16]
Năm 1996, tại kỳ họp thứ X của Quốc hội, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng được chia thành hai đơn vị hành chính độc lập gồm Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh Quảng Nam mới có 14 huyện gồm Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hiệp Đức, Núi Thành, Phước Sơn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My và 2 thị xã: Tam Kỳ (tỉnh lị), Hội An.[17]
Năm 1998, thành lập xã Trà Vinh thuộc huyện Trà My[18] trên cơ sở một phần xã Trà Vân. Xã Trà Vinh có 3.851 ha diện tích tự nhiên và 1.328 nhân khẩu.
Năm 1999, thành lập một số phường, xã thuộc thị xã Hội An và huyện Hiên; huyện Giằng được đổi tên thành huyện Nam Giang.[19]
Năm 2002, chia tách một số phường, xã thuộc thị xã Tam Kỳ và các huyện Trà My, Hiệp Đức, Phước Sơn.[20]
Năm 2003, chia huyện Trà My thành 2 huyện: Bắc Trà My và Nam Trà My; chia huyện Hiên thành 2 huyện: Đông Giang và Tây Giang.[21]
Năm 2004, thành lập một số phường, xã thuộc thị xã Hội An và các huyện Đại Lộc, Quế Sơn.[22]
Năm 2005, thành lập một số phường, xã thuộc thị xã Tam Kỳ và thành lập huyện Phú Ninh[23]. Cùng năm, chia tách một số xã thuộc các huyện Núi Thành và Điện Bàn[24].
- Thành lập phường Hòa Thuận trên cơ sở một phần phường Tân Thạnh và xã Tam Đàn. Phường Hòa Thuận có 557,50 ha diện tích tự nhiên và 5.781 nhân khẩu.
- Thành lập xã Tam Đại trên cơ sở một phần xã Tam Thái. Xã Tam Đại có 2.760,50 ha diện tích tự nhiên và 6.149 nhân khẩu.
- Giải thể xã Tam Mỹ. Thành lập xã Tam Mỹ Đông và xã Tam Mỹ Tây trên cơ sở toàn bộ xã Tam Mỹ. Xã Tam Mỹ Đông có 1.727 ha diện tích tự nhiên tự nhiên và 6.400 nhân khẩu. Xã Tam Mỹ Tây có 5.104 ha diện tích tự nhiên và 5.869 nhân khẩu.
- Giải thể xã Tam Anh. Thành lập xã Tam Anh Bắc và xã Tam Anh Nam trên cơ sở toàn bộ xã Tam Anh. Xã Tam Anh Bắc có 2.100 ha diện tích tự nhiên và 6.409 nhân khẩu. Xã Tam Anh Nam có 2.191 ha diện tích tự nhiên và 9.316 nhân khẩu.
- Giải thể xã Điện Nam. Thành lập xã Điện Nam Bắc, xã Điện Nam Trung và xã Điện Nam Đông trên cơ sở toàn bộ xã Điện Nam. Xã Điện Nam Bắc có 814,45 ha diện tích tự nhiên và 5.065 nhân khẩu. Xã Điện Nam Trung có 767,50 ha diện tích tự nhiên và 6.728 nhân khẩu. Xã Điện Nam Đông có 842,25 ha diện tích tự nhiên và 6.256 nhân khẩu.
- Giải thể xã Điện Thắng. Thành lập xã Điện Thắng Bắc, xã Điện Thắng Trung và xã Điện Thắng Nam trên cơ sở toàn bộ xã Điện Thắng. Xã Điện Thắng Bắc có 357,20 ha diện tích tự nhiên và 5.792 nhân khẩu. Xã Điện Thắng Trung có 378,60 ha diện tích tự nhiên và 7.260 nhân khẩu. Xã Điện Thắng Nam có 506,20 ha diện tích tự nhiên và 6.122 nhân khẩu.
Năm 2006, thành lập thành phố Tam Kỳ[25] trên cơ sở toàn bộ thị xã Tam Kỳ. Thành phố Tam Kỳ có 9.263,56 ha diện tích tự nhiên và 123.662 nhân khẩu; có 13 đơn vị hành chính, gồm các 9 phường và 4 xã.
Năm 2007, thành lập một số xã, phường, mở rộng thị trấn thuộc thị xã Hội An và các huyện Đại Lộc, Bắc Trà My, Thăng Bình.[26]
Năm 2008, thành lập thành phố Hội An.[27] Cùng năm, thành lập một số xã thuộc các huyện Quế Sơn, Phước Sơn và thành lập huyện Nông Sơn.[28]
- Thành lập xã Hương An trên cơ sở một phần xã Quế Phú và xã Quế Cường. Xã Hương An có 1.035 ha diện tích tự nhiên và 6.450 nhân khẩu.
- Thành lập xã Sơn Viên trên cơ sở một phần xã Quế Lộc. Xã Sơn Viên có 2.517 ha diện tích tự nhiên và 3.215 nhân khẩu.
- Thành lập xã Phước Ninh trên cơ sở một phần xã Quế Phước và xã Quế Ninh. Xã Phước Ninh có 12.228 ha diện tích tự nhiên và 3.586 nhân khẩu.
Năm 2009, thành lập thị trấn Phú Thịnh thuộc huyện Phú Ninh.[29]
Năm 2011, chia tách một số xã thuộc huyện Nam Giang.[30]
Năm 2015, thành lập thị xã Điện Bàn và thành lập các phường thuộc thị xã Điện Bàn.[31]
- Thành lập phường Vĩnh Điện trên cơ sở toàn bộ thị trấn Vĩnh Điện. Phường Vĩnh Điện có 205,35 ha diện tích tự nhiên và 8.244 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện An trên cơ sở toàn bộ xã Điện An. Phường Điện An có 1.014,85 ha diện tích tự nhiên và 14.464 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện Ngọc trên cơ sở toàn bộ xã Điện Ngọc. Phường Điện Ngọc có 2.121,60 ha diện tích tự nhiên và 31.392 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện Nam Bắc trên cơ sở toàn bộ xã Điện Nam Bắc. Phường Điện Nam Bắc có 750,97 ha diện tích tự nhiên và 10.159 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện Nam Trung trên cơ sở toàn bộ xã Điện Nam Trung. Phường Điện Nam Trung có 803,74 ha diện tích tự nhiên và 9.273 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện Nam Đông trên cơ sở toàn bộ xã Điện Nam Đông. Phường Điện Nam Đông có 879,98 ha diện tích tự nhiên và 8.879 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện Dương trên cơ sở toàn bộ xã Điện Dương. Phường Điện Dương có 1.563,97 ha diện tích tự nhiên và 19.039 nhân khẩu.
Năm 2020, hợp nhất và thành lập một số xã, thị trấn thuộc các huyện Hiệp Đức, Nông Sơn, Quế Sơn.[32]
- Thành lập xã Quế Mỹ trên cơ sở toàn bộ xã Quế Cường và xã Phú Thọ. Xã Quế Mỹ có 39,45 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 9.430 người.
- Thành lập thị trấn Hương An trên cơ sở toàn bộ xã Hương An. Thị trấn Hương An có 11,17 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 8.267 người.
- Sau khi sắp xếp, huyện Quế Sơn có 13 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 11 xã và 02 thị trấn.
- Thành lập xã Ninh Phước trên cơ sở toàn bộ xã Quế Ninh và xã Quế Phước. Xã Ninh Phước có 61,61 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 4.847 người.
- Sau khi sắp xếp, huyện Nông Sơn có 06 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 06 xã.
- Thành lập thị trấn Tân Bình trên cơ sở toàn bộ thị trấn Tân An và xã Quế Bình. Thị trấn Tân Bình có 23,17 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 6.249 người.
- Sau khi sắp xếp, huyện Hiệp Đức có 11 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 10 xã và 01 thị trấn.
Năm 2023, thành lập một số phường, thị trấn thuộc thị xã Điện Bàn và huyện Nông Sơn.[33]
- Thành lập phường Điện Thắng Bắc trên cơ sở toàn bộ xã Điện Thắng Bắc. Phường Điện Thắng Bắc có 3,79 km² diện tích tự nhiên và 7.670 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện Thắng Trung trên cơ sở toàn bộ xã Điện Thắng Trung. Phường Điện Thắng Trung có 3,78 km² diện tích tự nhiên và 8.553 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện Thắng Nam trên cơ sở toàn bộ xã Điện Thắng Nam. Phường Điện Thắng Nam có 5,38 km² diện tích tự nhiên và 7.480 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện Minh trên cơ sở toàn bộ xã Điện Minh. Phường Điện Minh có 7,57 km² diện tích tự nhiên và 11.558 nhân khẩu.
- Thành lập phường Điện Phương trên cơ sở toàn bộ xã Điện Phương. Phường Điện Phương có 9,94 km² diện tích tự nhiên và 15.129 nhân khẩu.